[ad_1]

Sau 20 năm thực hiện phát Nghị quyết 10 và Kết luận số 20 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Tây Nguyên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh Vùng Tây Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh…

Ngoài nguyên nhân khách quan khiến Vùng Tây Nguyên chưa phát triển như mục tiêu đặt ra, những tồn tại, khó khăn của Vùng còn đến từ các nguyên nhân chủ quan. Ngoài nguyên nhân khách quan khiến Vùng Tây Nguyên chưa phát triển như mục tiêu đặt ra, những tồn tại, khó khăn của Vùng còn đến từ các nguyên nhân chủ quan.

Là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh của cả nước; có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế rừng, chế biến nông lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, phát triển du lịch nhưng Tây Nguyên lại có xuất phát điểm thấp với nhiều điều kiện khó khăn như kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí khó khăn, an ninh, quốc phòng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp…

Vì vậy, ngày 18/1/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010. Tiếp đến, ngày 24/10/2011, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 12 tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020.

8 THÀNH TỰU QUAN TRỌNG

Đánh giá sơ bộ về kết quả 20 năm thực hiện Nghị quyết 10 và Kết luận số 12 tại Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2020 ngày 1/7, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định Tây Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Thứ nhất, theo Bộ trưởng, các nhiệm vụ, giải pháp, mục tiêu, chỉ tiêu đề ra cơ bản được hoàn thành; khẳng định Nghị quyết 10 và Kết luận số 12 của Bộ Chính trị đã thực sự đi vào cuộc sống.

Thứ hai, kinh tế vùng Tây Nguyên đã đạt được kết quả khá toàn diện, quy mô kinh tế được mở rộng; chuyển dịch cơ cấu đúng định hướng. 

Thứ ba, văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống văn hóa của người dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được phát huy. Công tác giảm nghèo từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm khá.

Thứ tư, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học đã được quan tâm. Công tác quản lý bảo vệ phát triển rừng, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước đã được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng và được xác định là vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với sinh kế của người dân trong vùng.

Thứ năm, việc giao đất, cho thuê đất, định canh, định cư đã được triển khai thực hiện kịp thời, từng bước khắc phục được tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở.

Thứ sáu, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đời sống đồng bào vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển biến tích cực, chuyển dần từ thái độ thụ động, ỷ lại sang chủ động, phấn đấu vươn lên thoát nghèo.

Thứ bảy, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa, đấu tranh xóa bỏ tổ chức, lực lượng và đối tượng liên quan đến FULRO, “Tin lành Đê ga” và các loại tà đạo được đẩy mạnh.

Thứ tám, công tác xây dựng Đảng được quan tâm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên; chất lượng hoạt động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội được nâng cao, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.

CÒN TỒN TẠI NHIỀU KHÓ KHĂN VÀ HẠN CHẾ

Dù đạt được những kết quả tích cực song theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, trong quá trình phát triển, vùng Tây Nguyên còn tồn tại khó khăn, hạn chế.

Đó là phát triển kinh tế vùng chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng thấp; phát triển văn hóa – xã hội còn nhiều bất cập, kết quả giảm nghèo chưa bền vững; liên kết giữa các địa phương trong vùng cũng như liên vùng chưa chặt chẽ, chưa có tính chiến lược, lâu dài theo hướng bổ trợ lẫn nhau; khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn nhiều bất cập; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp và tổ chức, hoạt động của bộ máy còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao.

Theo “người đứng đầu” Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngoài những nguyên nhân khách quan khiến Vùng Tây Nguyên chưa phát triển như mục tiêu đặt ra như xuất phát điểm thấp, dân trí không cao… những tồn tại, khó khăn của Vùng thời gian qua còn đến từ các nguyên nhân chủ quan.

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trao đổi với các đại biểu tham dự Hội nghị.Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trao đổi với các đại biểu tham dự Hội nghị.

Trong đó, nổi lên 5 nguyên nhân chính.

Một là, nhận thức về vai trò, nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng còn chưa cao; công tác chỉ đạo điều hành giữa các cấp, các ngành chưa thật sự quyết liệt, thiếu đồng bộ.

Hai là, cơ chế, chính sách cho phát triển kinh tế – xã hội vùng chưa theo kịp đòi hỏi thực tế, chủ yếu mang tính hỗ trợ, chưa chú trọng kích thích phát triển.

Ba là, quy hoạch phát triển vùng, các địa phương trong vùng chưa đồng bộ; việc cụ thể hóa, ưu tiên bố trí không gian phát triển cho các công trình hạ tầng cấp vùng, liên tỉnh chưa thực sự được quan tâm.

Bốn là, hỗ trợ nguồn lực cho đầu tư trong vùng còn chưa đáp ứng được yêu cầu; việc thu hút, huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội còn hạn chế.

Năm là, thiếu thể chế điều phối và kết nối phát triển toàn vùng, nhất là trong việc quản lý và xử lý những vấn đề mang tính vùng.

ĐỂ TÂY NGUYÊN TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG

Để Tây Nguyên phát triển bền vững và trở thành một động lực quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị cần làm rõ 5 vấn đề.

Thứ nhất, đánh giá sâu sắc hơn các kết quả đạt được từ năm 2002 đến nay, những kết quả có tính chất quyết định đến phát triển kinh tế – xã hội toàn Vùng; những nguồn lực, tiềm năng còn chưa được khai thác hoặc khai thác chưa hiệu quả; những điểm nghẽn, nút thắt kìm hãm sự phát triển của các địa phương trong Vùng.

Thứ hai, thảo luận, phân tích tính đồng bộ trong việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực bên ngoài và khơi thông các nguồn lực tại chỗ để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đề xuất các khuyến nghị chính sách cho Vùng.

Thứ ba, làm rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Vùng trong mối quan hệ tổng thể quốc gia; đánh giá các cơ hội, thách thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của Vùng trong thời gian tới.

Thứ tư, định hình lại, làm sâu sắc hơn các tiềm năng, lợi thế của Vùng Tây Nguyên.

“Trên cơ sở đó, đề xuất được các quan điểm cần được xem xét, các cơ chế chính sách cần phải thay đổi; các ngành, lĩnh vực cần được ưu tiên đầu tư; các trục phát triển kết nối Vùng với khu vực Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và các địa phương của Lào, Campuchia để phát triển kinh tế xã hội Vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Bộ trưởng nêu quan điểm.

Cuối cùng, làm rõ việc giải quyết các vấn đề nổi lên của Vùng như tập trung khôi phục và phát triển kinh tế rừng; bảo vệ hệ sinh thái đầu nguồn, đa dạng sinh học và an ninh nguồn nước; giải quyết tình trạng đói nghèo, thiếu đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số của vùng; giải quyết dứt điểm tình trạng dân di cư tự do; thúc đẩy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tây Nguyên; bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác xây dựng tổ chức Đảng và hệ thống chính trị cấp cơ sở nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc của Vùng.

Nguồn: https://vneconomy.vn/bo-ke-hoach-va-dau-tu-de-nghi-lam-ro-5-van-de-de-tay-nguyen-tang-toc-phat-trien.htm

[ad_2]