[ad_1]
Năm 140 – Trước Công nguyên, Hán Cảnh Đế băng hà, hưởng dương 48 tuổi. Cùng ngày, Lưu Triệt 16 tuổi chính thức thừa kế ngai vàng, lấy hiệu là Hán Vũ Đế, vén tấm màn lớn mở đường cho sự cường thịnh của vương triều nhà Hán…
Chuyện phế, lập đầy sóng gió
Từ thời Tây Chu, Chu Công chế Lễ tác Nhạc cho đến nay, các đế vương cổ đại thường xác lập quy tắc “đích trưởng tử”, theo đó: con trai trưởng được coi là chính thất thừa kế, ngai vàng là do con trưởng, tức là con trai lớn nhất của Hoàng hậu kế thừa. Nếu như chính thất không có con trai, thì mới lập con của phi tần có thân phận tôn quý nhất lên ngôi. Trong “Công Dương Truyện” cũng có nói: “Lập đích dĩ trưởng bất dĩ hiền, lập tử dĩ quý bất dĩ trưởng” (Tạm dịch: Lập người kế vị thì lập người con trưởng – nhiều tuổi, dù không phải là người hiền tài; lập con [thứ] thì lập người mẹ có địa vị cao quý hơn chứ không phải là người có tuổi đời lớn hơn).
Bạc Hoàng hậu của Hán Cảnh Đế không có con, vì vậy ngôi vị Thái tử sẽ dành cho một trong mười bốn vị thứ tử, là các con trai của sáu phi tần. Hán Vũ Đế xếp thứ mười, trước ông còn có chín anh trai, hơn nữa người anh Lưu Vinh của ông, là con trai của Lật Cơ, là phi tần mà Hán Cảnh Để sủng ái nhất. Do đó, sau khi Hán Cảnh Đế đăng cơ, liền lập Lưu Vinh làm Thái tử, phong Vũ Đế làm Giao Đông Vương.
Nhưng sự sắp đặt của số phận luôn đầy kịch tính. Chị gái của Hán Cảnh Đế là Công chúa Quán Đào có một người con gái tên Trần Thị, cũng chính là Trần A Kiều mà người đời sau nói tới trong truyền thuyết. Công chúa vì muốn gả con gái cho Thái tử, nên tìm cách lấy lòng Lật Cơ. Lật Cơ là người hay ghen tuông, nhưng công chúa Quán Đào lại luôn tiến cử những mỹ nữ trẻ trung cho Hán Cảnh Đế, và những người này sau đó đều được sủng ái. Bởi vậy Lật Cơ rất oán hận công chúa Quán Đào và một mực từ chối hôn sự.
Công chúa Quán Đào là viên minh châu của Đậu Thái hậu, hơn nữa lại có quan hệ vô cùng thân thiết với Hán Cảnh Đế, là người có ảnh hưởng rất lớn trong hậu cung. Thế nhưng Lật Cơ lòng dạ hẹp hòi, vì tư lợi mà đắc tội với Công chúa. Công chúa Quán Đào trong cơn nóng giận, đã trước mặt Hán Cảnh Đế nói lời không hay về Lật Cơ. Hán Cảnh Đế cũng vì vậy mà dần xa cách Lật Cơ. Ngoài ra, vì cầu thân không thành, nên Công chúa Quán Đào chuyển mục tiêu sang Vương Mỹ Nhân, và kết quả là Vương Mỹ Nhân liền nhanh chóng chấp thuận. Vận mệnh của Giao Đông Vương cũng từ đó mà dần biến chuyển.
Trong “Hán Vũ Cố Sự” còn ghi chép một câu chuyện, rằng một ngày nọ Công chúa Quán Đào bế tiểu Lưu Triệt trên đùi và nói: “Cháu có muốn lấy vợ không?” Lưu Triệt đáp: “Muốn ạ”. Công chúa liền chỉ tay về phía hơn một trăm thị nữ và hỏi ý Lưu Triệt, nhưng Lưu Triệt đều không ưng thuận. Cuối cùng, Công chúa Quán Đào chỉ con gái mình hỏi: “A Kiều thì sao?” Lưu Triệt vừa cười vừa nói: “Thật tốt quá, nếu như có thể cưới được A Kiều, cháu sẽ xây một ngôi nhà bằng vàng cho nàng ở”. Đây chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “Kim ốc tàng Kiều”.
Công chúa Quán Đào nghe xong mừng rỡ khôn xiết, rồi lên đề nghị Hán Cảnh Đế chỉ định hôn sự cho hai người, hơn nữa còn khen ngợi tài năng và đức độ của Lưu Triệt trước mặt Hán Cảnh Đế. Tâm ý của Hán Cảnh Đế cũng dần ngả về phía Lưu Triệt và Vương Mỹ Nhân. Lật Cơ mất đi đồng minh quyền thế là Công chúa Quán Đào, mà vẫn hồn nhiên không biết bản thân đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm, vẫn ỷ mình là thân mẫu của Thái tử, luôn đố kỵ và oán hận, không chú ý mà đã bị tiền triều làm hại.
Trong một lần thiết triều, sau khi Lễ Quan hoàn tất dâng tấu đại sự đã bẩm: “Tử dĩ mẫu quý, mẫu dĩ tử quý; hiện tại sinh mẫu của hoàng tử không có phong hiệu, nên phải lập làm Hoàng hậu”. Sau khi Bạc Thái hoàng thái hậu qua đời, Bạc Hoàng hậu liền bị phế truất, ngôi vị Hoàng hậu vẫn luôn bỏ trống. Nào ngờ Hán Cảnh Đế nghe xong liền nổi cơn thịnh nộ: “Điều này đến lượt ngươi nói sao!” và bèn sai giết Lễ Quan. Tiếp đó, Hán Cảnh Đế phế Thái tử, cải lập Giao Đông Vương Lưu Triệt bảy tuổi làm Thái tử, phong Vương Mỹ Nhân làm Hoàng hậu.
Lật Cơ thất sủng, không cách nào biện bạch trước Hán Cảnh Đế, đành ôm uất ức sầu não mà chết. Trong chuyện lập hậu này, Lật Cơ là kẻ bị hãm hại, nhưng công bằng mà nói bi kịch này cũng do Lật Cơ tự mình chuốc lấy. Lúc trước Hán Cảnh Đế sức khỏe không tốt, có ý phong Lật Cơ làm Hoàng hậu, còn muốn để các Hoàng tử của mình cho Lật Cơ chăm sóc, và nói: “Sau khi trẫm qua đời, nàng phải đối đãi tốt với chúng”.
Ý tứ gửi gắm của Hán Cảnh Đế đã rõ ràng đến vậy, nhưng Lật Cơ nghe mà không hiểu, còn oán hận sinh mẫu của các Hoàng tử đã cướp mất của nàng ta sự ân sủng của hoàng thượng, miệng nói ra những ác ngôn và không nhận lời với Hán Cảnh Đế. Hán Cảnh Đế lúc ấy vô cùng phẫn nộ, chỉ là không có biểu hiện ra bên ngoài mà thôi. Sự cải lập Thái tử lần này của Hán Cảnh Đế đã đặt nền móng cho con đường tiến đến ngôi vị Hoàng đế của Hán Vũ Đế.
Cậu bé thiên tài
Thời gian này, em trai của Hán Cảnh Đế là Lương Hiếu Vương lại nhận được sự hậu thuẫn của mẫu thân là Đậu Thái hậu, cũng cực lực mưu cầu ngôi vị Thái tử. Các đại thần đã khuyên Đậu Thái hậu nên từ bỏ suy nghĩ này, nhưng thay vào đó Lương Vương đã phái sát thủ sát hại mười mấy vị đại thần đã khuyên can này. Nể mặt Đậu thái hậu, Hán Cảnh Đế chỉ lệnh cho Lương Vương trở về thái ấp, không được phép tùy ý ra vào kinh thành. Đến đây, những chướng ngại trên con đường xưng vương của Hán Vũ Đế đã bị thanh từ triệt để.
Có thể có người cảm thấy việc Hán Vũ Đế lên ngôi vua có phần kịch tính và thú vị như “Cung đấu kịch” (vở kịch/tuồng về sự đấu đá trong cung). Nhưng kỳ thực, Hán Vũ Đế là người được Thiên tuyển. Không chỉ những điềm lành liên quan đến ông triển hiện không ngớt, mà từ nhỏ Hán Vũ Đế đã bộc lộ tài năng, đức hạnh, thông minh, trí tuệ, biết chừng mực trên dưới, không ít lần khiến những người trong hoàng cung phải nhìn ông bằng con mắt khác. Tất cả những điều này cho thấy ông đã được định trước là người xứng đáng nhất để lựa chọn kế vị ngai vàng.
Trong “Hán Vũ cố sự” có viết lời ca ngợi ông như sau: “Tuổi nhỏ mà thông minh, trí thuật, chơi với huynh đệ, cung nhân luôn biết lựa ý mà hành, lớn nhỏ đều vui lòng. Với bề trên cung kính ứng đối, như người trưởng thành, những người theo Thái hậu và văn võ bá quan đều ủng hộ.” (6) Hán Vũ Đế từ nhỏ đã thông minh mưu trí, khi giao thiệp cùng người trong cung và các huynh đệ có thể hiểu được điều trong lòng họ mà điềm tĩnh ứng đối, được lòng hết thảy mọi người trên dưới trong cung. Trước mặt phụ hoàng Hán Cảnh Đế, Hán Vũ Đế luôn cung kính lễ độ, cử chỉ ngôn hành nhất mực đều như người trưởng thành, ngay cả Đậu Thái hậu cũng chú ý tới vị tiểu hoàng tôn đặc biệt này.
Hán Vũ Đế từ nhỏ đã thông minh mưu trí, khi giao thiệp cùng người trong cung và các huynh đệ có thể hiểu được điều trong lòng họ mà điềm tĩnh ứng đối, được lòng hết thảy mọi người trên dưới trong cung.
“Hán Vũ Đế nội truyện” còn ghi chép vài câu chuyện khác về thuở thiếu thời của Hán Vũ Đế. Ví như khi Hán Vũ Đế lên ba, Hán Cảnh Đế bế cậu bé vào lòng và hỏi: “Hài nhi của ta có muốn làm Thiên tử không?” Cậu bé Lưu Triệt liền đáp: “Việc này là do thượng Thiên an bài, đâu do con muốn hay không mà được. Nhưng con hy vọng mỗi ngày đều được sống trong hoàng cung, được chơi đùa bên phụ thân, nhất định không dám láo xược vô lễ, trái bổn phận làm con”.
Hán Cảnh Đế không khỏi ngạc nhiên khi con nhỏ có thể dõng dạc nói ra những lời hiểu biết sâu sắc như vậy. Về sau, ông đặc biệt chú ý dạy dỗ và bồi dưỡng cho cậu bé này. Vài ngày sau, Hán Cảnh Đế lại bế con trai đến trước bàn đọc sách, hỏi cậu bé đọc sách gì, và nói về chúng một chút. Tiểu Lưu Triệt liền đọc to các tác phẩm từ thời Phục Hy cho đến các sách Thánh hiền mà cậu đã học thuộc lòng, trong đó có cả luận thuật về âm dương ngũ hành, các bài luận văn quốc sách trứ danh trong lịch sử, và những bài văn dài mấy vạn chữ mà không sót một từ nào.
Hán Cảnh Đế cũng là người có khả năng ghi nhớ tài tình. Không lẽ hoàng tử nhỏ của ông cũng có siêu năng lực, xem qua một lần liền nhớ? Hán Cảnh Đế cũng không đối xử với cậu bé này như những đứa trẻ bình thường khác. Lúc Hán Vũ Đế lên bảy, thì chính thức đổi tên cậu bé thành Lưu Triệt. Trong “Trang Tử” có câu: “Mắt nhìn thông tỏ gọi là mắt sáng; tai nghe thấu suốt thì gọi là tai thính; mũi mà đánh hơi mau thì là mũi thính; miệng mà biết được các vị thì gọi là miệng ngọt; tâm mà thấu triệt được lý lẽ thì gọi là trí tuệ; trí tuệ thấu triệt hết thảy gọi là đức”. (7) Từ “Triệt” ở đây có nghĩa là người tài ba hiểu biết hơn người. Cái tên này gửi gắm rất nhiều kỳ vọng lớn lao và lời ngợi khen của Hán Cảnh Đế dành cho người con trai này.
Lúc Hán Vũ Đế lên bảy, thì chính thức đổi tên cậu bé thành Lưu Triệt. Từ “Triệt” ở đây có nghĩa là người tài ba hiểu biết hơn người. Cái tên này gửi gắm rất nhiều kỳ vọng lớn lao và lời ngợi khen của Hán Cảnh Đế dành cho người con trai này.
Lúc Hán Vũ Đế lên bảy, thì chính thức đổi tên thành Lưu Triệt. Từ “Triệt” có nghĩa là người tài ba hiểu biết hơn người. Cái tên này gửi gắm rất nhiều kỳ vọng lớn lao và lời ngợi khen của Hán Cảnh Đế dành cho người con trai này.
Sau khi Lưu Triệt lên làm Thái tử lại càng siêng năng học tập. Lưu Triệt học rộng, gồm cả cưỡi ngựa, bắn cung, Nho học, văn học, v.v. cũng vì thế mà càng được Hán Cảnh Đế yêu quý.
“Hán Vũ cố sự” còn ghi chép: khi Lưu Triệt 14 tuổi, Đình Úy thỉnh Hán Cảnh Đế phê chuẩn một vụ án giết người. Kẻ sát nhân tên Phòng Niên, người bị sát hại là mẹ kế của anh ta. Vì mẹ kế sát hại cha của Phòng Niên, nên anh ta đã giết bà mẹ kế đó. Đình Úy tính phán Phòng Niên tội đại nghịch, nhưng Hán Cảnh Đế cảm thấy có phần không thỏa đáng, liền hỏi Lưu Triệt đưa ra quan điểm của mình.
Lưu Triệt phân tích: “Người ta thường nói mẹ kế giống như mẹ ruột, lời này cho thấy mẹ kế và mẹ ruột là khác nhau, chẳng qua là người cha đã cưới bà ấy về làm vợ, nên mới có địa vị giống như mẹ đẻ mà thôi. Hiện tại, mẹ kế của Phòng Niên đã sát hại cha đẻ của anh ta, nên anh ta với mẹ kế cũng có thể tính là đã đoạn tình tuyệt nghĩa, quan hệ mẫu-tử đã không còn tồn tại, nên phán xử tội sát nhân thông thường, không nên phán tội đại nghịch”. Hán Cảnh Đế đồng tình với ý kiến này. Bình thường thì tội sát nhân sẽ bị “khí thị”, tức là xử tử phạm nhân tại một khu phố náo nhiệt. Các đại thần cũng đều cho rằng Lưu Triệt phân tích rất thỏa đáng. Từ đó về sau Hán Cảnh Đế càng xem trọng Lưu Triệt.
Năm 140 trước Công nguyên, Hán Cảnh Đế băng hà, hưởng dương 48 tuổi. Cùng ngày, Lưu Triệt 16 tuổi chính thức thừa kế ngai vàng, lấy hiệu là Hán Vũ Đế, vén tấm màn lớn mở đường cho sự cường thịnh của vương triều nhà Hán.
Nhã Văn – Ntdvn
Theo: Chuyên mục Văn hóa – Epoch Times
[ad_2]