[ad_1]
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng, gấp 4 lần tổng vốn đầu tư 10 năm qua. Trong đó, ưu tiên đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối và bố trí các trung tâm logistics tại 8 cảng lớn…
Phối cảnh nhà ga hành khách sân bay Long Thành.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải vừa ký tờ trình số 13883 đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Dự thảo quy hoạch này được Bộ Giao thông vận tải tiếp thu đầy đủ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 ngày 7/12/2021.
Theo dự thảo, 10 năm tới sẽ có 28 cảng hàng không, trong đó, có 14 cảng hàng không quốc tế là Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc.
Bên cạnh đó, 14 cảng hàng không quốc nội gồm Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo.
Đáng chú ý, trong phương án quy hoạch mới nhất, Bộ Giao thông vận tải đề xuất ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng thủ đô Hà Nội và vùng TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, tại vùng TP. Hồ Chí Minh, xây cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 có công suất 25 triệu hành khách/năm. Xây dựng nhà ga T3 – cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất có công suất 20 triệu hành khách/năm.
Tại vùng Thủ đô Hà Nội, mở rộng nhà ga T2 – cảng hàng không quốc tế Nội Bài, nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm. Xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 – cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Nam của cảng;…
“Từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng hàng không. Tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 283 triệu hành khách, đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km”, Bộ Giao thông vận tải.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải sẽ nghiên cứu, khảo sát và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc bổ sung quy hoạch, xây dựng cảng hàng không sân bay tại các đảo như Lý Sơn, Phú Quý…, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Trong giai đoạn này, Bộ Giao thông vận tải đề xuất tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Một điểm nhấn quan trọng khác trong dự thảo quy hoạch lần này là Bộ Giao thông vận tải đề xuất bố trí các trung tâm logistics tại các cảng hàng không có nhu cầu vận tải lớn hơn 250.000 tấn/năm.
Các trung tâm logistics đảm bảo các điều kiện về kho vận và kết nối các loại hình giao thông thích hợp để vận tải hàng hóa tại 8 cảng hàng không gồm Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Vân Đồn, Cát Bi, Đà Nẵng, Chu Lai, Long Thành, Cần Thơ và một số cảng hàng không khác khi có nhu cầu vận tải hàng hóa đạt tiêu chí nêu trên. Hình thành trung tâm logistics trung chuyển hàng hóa quốc tế tại cảng hàng không Chu Lai.
Về tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Giao thông vận tải đề xuất sẽ hình thành 31 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế và 17 cảng hàng không quốc nội. Hình thành một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Theo tính toán, diện tích đất chiếm dụng dự kiến của quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 20.378 ha, nhu cầu diện tích đất cần bổ sung thêm khoảng 7.970 ha.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 22% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành, được huy động nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Như vậy, nhu cầu vốn 10 năm tới lớn gấp 4 lần so với tổng vốn đầu tư cho hạ tầng hệ thống sân bay giai đoạn 2011-2020 chỉ khoảng 95.000 tỷ, gồm vốn ngân sách nhà nước khoảng 11.900 tỷ, vốn ngoài ngân sách nhà nước hơn 83.100 tỷ đồng.
#box1640835863848{background-color:#99b29b}
[ad_2]