[ad_1]

Trong lịch sử văn minh lâu đời, “Hòa” luôn là đạo đức truyền thống được tôn sùng, là nguyên tắc cơ bản bao trùm các tầng diện và các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và nội tâm, cho đến quy định bản chất của việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là tinh hoa của văn hóa truyền thống và là một loại tinh thần dân tộc cao thượng.

“Hòa vi quý”

“Hòa” biểu đạt ra quan niệm tư tưởng hòa mục, hòa ái, hòa bình, và bình hòa. Tư tưởng “hòa vi quý” và “quý hòa” là định hướng giá trị trung tâm nhất của văn hóa truyền thống nước ta.

“Thiên nhân hợp nhất”, tức là “hòa” của thiên và nhân, là chỉ con người cần có lòng cảm ân, kính úy Thiên địa, tuân theo quy luật vũ trụ, tôn trọng và bảo vệ tự nhiên, cần biết rõ Đạo “hòa thực sinh vật”. Cá nhân tu tâm dưỡng tính, cần coi trọng công phu “tâm bình khí hòa”. Giao tiếp với người, cần giữ gìn nguyên tắc “hòa nhi bất đồng” (hòa thuận mà không câu kết), “hòa nhi bất lưu” (hòa đồng mà không theo trào lưu). Trị sửa quốc gia, cần hiểu rõ cái lý “chính thông nhân hòa” (chính lệnh thông suốt, người dân hòa hợp), để đạt đến sự hài hòa và thống nhất giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người.

Khi luận về “Hòa”, Khổng Tử đề ra lấy “thân nhân thiện nhân” (thân với người nhân đức, thiện với người nhân đức) làm nền tảng.

Sách “Đại học” từng đề ra: “Tự Thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” (Từ Thiên tử đến thứ dân, hết thảy đều lấy việc tu thân làm gốc), đó chính là mọi người đều phải coi trọng tu thân dưỡng tính, “cư xử cung, chấp sự kính, dữ nhân trung” (cư xử, làm việc cần cung kính, trung thành với người), “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì chớ làm cho người) v.v…

Khổng Tử cho rằng, một người, chỉ sau khi có đạo đức thì mới trở thành người quân tử khác biệt với tiểu nhân, thì mới có thể tiến vào cảnh giới “hòa nhi bất đồng”, “chu nhi bất tí” (hòa hợp mà không câu kết). Luận Ngữ có viết: “Lễ chi dụng, hòa vi quý” (Tác dụng của lễ, quan trọng nhất là khiến cho mọi người hài hòa), đã chỉ ra tiền đề của “hòa vi quý” là cần phải “dùng lễ để tiết chế”, cũng chính là cần phải làm được chế lễ, thủ lễ.

Chỉ có: “Khắc kỷ phục lễ” thì mới có thể “thiên hạ quy hòa”. Trong lịch sử, lễ làm quy phạm xã hội và an bài chế độ, nó có 2 đặc tính: Thứ nhất là “khác biệt”, “lễ chết vì không khác biệt, không khác biệt không thể gọi là lễ”, dùng nó để tránh do không có khác biệt mà tạo thành xung đột lợi ích và xã hội không có trật tự.

Thứ 2 là “hòa”, “lễ” thì “hòa” là quan trọng nhất, là thể hiện của “hòa”, mấu chốt là phải xem nó có thể hiện ra nguyên tắc đạo đức và chính nghĩa hay không.

Ví như Thuấn thời cổ đại, thiện với người khác, đức lợi cho chúng sinh. Thân người hiền, xa kẻ nịnh. Ông mở rộng đường cho mọi người phát ngôn, lắng nghe tiếng nói của dân chúng, lập ra tấm gỗ phỉ báng (ngày nay diễn biến thành hoa biểu – cột nghi lễ trước cung điện, lăng mộ).

Ông đã từng cành ở núi Lịch Sơn, nhường ruộng đất màu mỡ cho người khác. Khi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, ông nhường ngư trường tốt cho người khác. Ông dẫn động các thợ thủ công làm gốm ở Hà Tân tỉ mỉ chế tạo, không làm thô làm ẩu.

Phương thức mà ông thúc đẩy hòa vi quý là lấy đức cảm hóa Tam Miêu, khiến họ từ bỏ ác theo thiện. Chính vì ông khiêm cung lễ nhượng, thành tín nhân đức, bách tích đều được cảm hóa, mọi người đều tự giác tuân thủ đạo đức xã hội, khiến cho “nơi ông cư trú, một năm thành quần tụ, 2 năm thành ấp, 3 năm thành đô thị”, đã khai sáng ra nền thái bình thịnh thế, chính trị trong sạch, tươi sáng, ngàn bang hòa hợp.

Nguồn: Minghui.org

Xem thêm

[ad_2]