[ad_1]

Giới phân tích nhận định quy định về các giao dịch đáng ngờ trong Dự thảo Luật Phòng chống rửa tiền còn thiên về định tính, chưa rõ ràng.

Phiên họp Chuyên đề Pháp luật tháng 08/2022/Ảnh: Cổng thông tin Quốc hội.
Phiên họp Chuyên đề Pháp luật tháng 08/2022/Ảnh: Cổng thông tin Quốc hội.

Tại Phiên họp chuyên đề Pháp luật tháng 08/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).

Trước đó, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Phòng chống rửa tiền sửa đổi đã đề xuất bổ sung đối tượng báo cáo mới nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh là: Tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.

LÀM RÕ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH GIAO DỊCH ĐÁNG NGỜ

Tuy nhiên, sau khi tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đánh giá tính khả thi; đồng thời, để đảm bảo quy định tại luật có tính bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, dự thảo luật được điều chỉnh lại theo hướng giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền.

Cùng đó, dự thảo cũng đã bổ sung quy định việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.

Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhấn mạnh rằng đối với dự thảo luật hiện nay, nên xem xét, cân nhắc bổ sung các đối tượng báo cáo của luật là các công ty viễn thông đang cung cấp dịch vụ Mobile Money (TD, Viettel money), dịch vụ chuyển tiền bưu chính, dịch vụ chuyển tiền qua các công ty chuyển tiền quốc tế (VD Western Union), các công ty được cấp phép cung cấp dịch vụ tài sản ảo, kinh doanh tài chính – tiền tệ trên nền tảng số (TD, Fintech, Insurtech, Proptech…).

Phân tích về Điều 26 dự thảo Luật Phòng chống rửa tiền quy định về các dấu hiệu đáng ngờ, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nhận định phần lớn những dấu hiệu được nêu trong dự thảo định tính, chưa thật sự rõ ràng và rất khó để xác định dấu hiệu đáng ngờ. Dẫn ra những dấu hiệu cảm tính như: “Tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường”; “Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”; “Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn”, “Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không rõ ràng, minh bạch”…, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề nghị rà soát nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung (nếu có) thêm cho các đối tượng báo cáo những dấu hiệu đáng ngờ phù hợp với tình hình.

 

Với những thiếu hụt về khung pháp lý và hiệu quả thực thi về phòng chống rửa tiền còn hạn chế, thiếu đồng bộ ở các ngành, các lĩnh vực, Việt Nam đã được đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau đánh giá đa phương của Nhóm châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) và rơi vào quy trình rà soát của FATF từ tháng 3/2022.

Đồng quan điểm với ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó tổng thư ký VCCI Đậu Anh Tuấn cũng cho rằng tiêu chí xác định/căn cứ nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm trong dự thảo là chưa rõ ràng.

Điều 26 Dự thảo quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo khi nghi ngờ hoặc có căn cứ nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có.

Tuy nhiên, theo ông Đậu Anh Tuấn, pháp luật hiện hành không bắt buộc các đối tượng báo cáo phải thu thập thông tin về nguồn gốc tài sản trong giao dịch với tất cả các giao dịch của khách hàng thực hiện tại tổ chức tài chính. Quy định như vậy có thể dẫn đến cách hiểu là đối tượng báo cáo phải thực hiện xác minh nguồn gốc tài sản (để xác định xem có phải từ nguồn phạm tội không). Khi đó, các đối tượng sẽ gặp khó khăn trong việc tuân thủ quy định này. 

Cũng theo Phó Tổng Thư ký VCCI, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ngân hàng Nhà nước hoặc các Bộ quản lý chuyên ngành) nên cân nhắc ban hành Bản mẫu về Quy định nội bộ liên quan đến phòng, chống rửa tiền, đặc biệt đối với các tổ chức phi tài chính liên quan. Bản mẫu này không có giá trị áp dụng bắt buộc, nhưng là cơ sở tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp tham khảo để tự xây dựng. Song song, cần làm rõ các tiêu chí xác định thế nào được coi là “tài sản có nguồn gốc từ tội phạm”. Căn cứ vào đó, các đối tượng báo cáo mới có thể có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ các hoạt động này.

TĂNG THỜI HẠN BÁO CÁO CÁC GIAO DỊCH ĐÁNG NGỜ

Khoản 2 Điều 30 dự thảo Luật Phòng chống rửa tiền quy định “Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải báo cáo trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch”. Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng thời gian như vậy là tương đối ngắn, các tổ chức tín dụng gặp khó trong việc đảm bảo tuân thủ thời gian báo cáo, vì giao dịch đáng ngờ nhiều trường hợp sẽ bao gồm những chuỗi giao dịch, liên quan đến nhiều khách hàng, nhiều bên liên quan. Do vậy, quá trình thu thập thông tin nhằm đánh giá, báo cáo giao dịch đáng ngờ là rất phức tạp, cần rất nhiều thời gian.

Để thời hạn báo cáo phù hợp với mục tiêu báo cáo và thông lệ khu vực, các tổ chức báo cáo có đủ thời gian phân tích, đánh giá các dấu hiệu đáng ngờ. Từ đó nâng cao chất lượng báo cáo, ông Nguyễn Quốc Hùng đề xuất điều chỉnh thời hạn báo cáo từ 2 ngày đến 5 ngày làm việc, kể từ thời điểm phát sinh hoặc phát hiện giao dịch đáng ngờ.

 

Trong một năm kể từ khi rơi vào quy trình rà soát của FATF (từ tháng 3/2022 – 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt theo quy trình theo dõi tăng cường của APG, khoảng thời gian này sẽ được coi là “giai đoạn quan sát”.

Các chuyên gia đánh giá, phạm vi các loại giao dịch phải báo cáo rất rộng và đang yêu cầu tổ chức tín dụng báo cáo các giao dịch có rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố rất nhỏ và không đáng kể như giao dịch giải ngân, giao dịch trả lương qua tài khoản,…. Các tổ chức tín dụng gặp khó trong việc xác định các loại giao dịch phải báo cáo, thu thập đầy đủ các thông tin theo yêu cầu. Vì vậy, chuyên gia đề xuất điều chỉnh khái niệm “giao dịch chuyển tiền điện tử” và thuật ngữ “phương tiện điện tử” tại Khoản 9 Điều 4 của dự thảo Luật Phòng chống rửa tiền.

Phạm vi các loại giao dịch phải báo cáo cũng nên được quy định, rõ ràng hơn. Đồng thời, không đưa các giao dịch liên quan đến giải ngân cho khách hàng vào diện giao dịch có giá trị lớn, giao dịch chuyển tiền điện tử, giao dịch đáng ngờ phải báo cáo do trước khi giải ngân cho khách hàng, các tổ chức tín dụng đã thẩm định kỹ các nội dung về mục đích sử dụng vốn, điều kiện vay vốn, năng lực tài chính, tính pháp lý và lịch sử tín dụng của khách hàng… nên nguồn tiền của các giao dịch này từ các tổ chức tín dụng là nguồn tiền hợp pháp, có nguồn gốc rõ ràng.

Ngoài ra, cũng cần sửa đổi quy định áp dụng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền theo hướng đối tượng báo cáo có trách nhiệm yêu cầu đại lý thực hiện quy định nội bộ do mình ban hành, thông qua cơ chế hợp đồng; bổ sung quy định cho phép các đối tượng báo cáo được lưu trữ các hồ sơ, tài liệu theo phương thức điện tử.

Nguồn: https://vneconomy.vn/tieu-chi-xac-dinh-giao-dich-co-dau-hieu-rua-tien-chua-ro-rang.htm

[ad_2]