[ad_1]

Thủ tướng nhấn mạnh 10 nhiệm vu, giải pháp cụ thể để phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng…

Thủ tướng phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP
Thủ tướng phát biểu tại hội nghị – Ảnh: VGP

Sáng 12/2, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng với chủ đề “Liên kết phát triển – Đổi mới sáng tạo – Xanh và Bền vững”.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh đây là hội nghị cuối cùng triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị về 6 vùng kinh tế xã hội trên cả nước, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là “nhất hô bá ứng, tiền  hộ hậu ủng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

Chính phủ đang tiếp tục thực hiện các công việc tiếp theo như xây dựng, kiện toàn các hội đồng vùng và cơ chế hoạt động, cơ chế, chính sách, quy hoạch… để phát triển các vùng. Thủ tướng nhấn mạnh điều này đòi hỏi Chính phủ, các bộ ngành, địa phương cùng chung tay làm, khẩn trương, quyết liệt, sát thực tế, khả thi và hiệu quả.

KHU VỰC GIÀU TIỀM NĂNG KHÁC BIỆT, CÓ QUY MÔ KINH TẾ ĐỨNG THỨ HAI CẢ NƯỚC

Thủ tướng đánh giá Vùng Đồng bằng sông Hồng có nhiều tiềm năng nổi trội - Ảnh: VGP
Thủ tướng đánh giá Vùng Đồng bằng sông Hồng có nhiều tiềm năng nổi trội – Ảnh: VGP

Thủ tướng và các đại biểu đã dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 6,42% diện tích cả nước với khoảng 21.278 km.

Đây là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; là cửa ngõ phía bắc của đất nước và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc – thị trường rộng lớn nhất thế giới; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.

Thủ đô Hà Nội, hạt nhân phát triển vùng, là trung tâm đầu não chính trị – hành chính quốc gia; trung tâm về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ; là thủ đô văn hiến, anh hùng có bề dày phát triển hàng nghìn năm gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Hệ thống giao thông kết nối đồng bộ với đầy đủ 5 phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không và cảng biển) kết nối với 4 tuyến hành lang kinh tế liên vùng và quốc tế, tạo thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ, đặc biệt là logistics, là điểm trung chuyển hàng hóa cho các tỉnh phía bắc. Trong đó, vùng biển có diện tích lớn có tiềm năng lớn phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ.

Về thực trạng phát triển vùng, các đại biểu nhấn mạnh một số kết quả nổi bật như tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước, giai đoạn 2005-2020 bình quân đạt 7,94%/năm (cả nước là 6,36%). Quy mô kinh tế năm 2020 gấp 7,75 lần so năm 2005, chiếm 29,4% GDP cả nước (đứng thứ 2, sau Vùng Đông Nam Bộ); GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước (sau Vùng Đông Nam Bộ là 141,3 triệu đồng/năm).

Cơ cấu chuyển dịch tương đối nhanh theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp – xây dựng, dịch vụ (năm 2020 lần lượt là 40,62% và 40,64%); các ngành công nghiệp mũi nhọn phát triển theo hướng hiện đại, quy mô lớn, ít thâm dụng lao động, hàm lượng công nghệ cao. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng, Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển, dịch vụ cảng biển lớn của cả nước.

Thu ngân sách tăng nhanh, tổng thu ngân sách Nhà nước giai đoạn 2005-2020 chiếm 32,7% (đến năm 2020 chiếm 34,5%) tổng thu ngân sách nhà nước cả nước (sau Vùng Đông Nam Bộ); vùng có 7/11 địa phương có điều tiết về Trung ương.

Kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại, tốt so với các vùng trên cả nước, hội tụ đủ 5 phương thức vận tải. Đến năm 2020, toàn vùng có 496 km đường cao tốc, 2.133 km quốc lộ, có mật độ đường cao tốc và quốc lộ cao nhất cả nước. 

Trong đó, mật độ đường cao tốc là 2,33 km/100 km2 (cả nước trung bình là 0,37 km/100 km2) và mật độ quốc lộ là 10,1 km/100 km2 (cả nước trung bình là 7,4 km/100 km2). Phát triển đô thị tăng nhanh, tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2021 đạt trên 41% (đứng thứ 2/6 vùng kinh tế, sau Đông Nam Bộ).

Thu hút FDI tăng khá nhanh. Đến năm 2020, đứng thứ 2 trong các vùng kinh tế (chiếm khoảng 31,4% tổng vốn cả nước). Trong đó, Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh luôn thuộc nhóm 10 địa phương có tổng số vốn FDI dẫn đầu cả nước.

Các lĩnh vực văn hóa – xã hội được quan tâm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, có 99,2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, cao nhất nước. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, chỉ còn 0,86% năm 2021 theo chuẩn nghèo đa chiều.

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền quốc gia. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được tăng cường; phòng chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả.

CÒN NHIỀU VIỆC PHẢI LÀM

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cũng phân tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức của Vùng. Theo đó, kinh tế xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng; các địa phương phát triển không đồng đều, phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động. Các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỷ lệ thấp. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở một số địa phương chưa bền vững, còn phụ thuộc vào một số ngành nhất định.

Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Hạ tầng giao thông thiếu kết nối, chủ yếu đường bộ. Hạ tầng du lịch còn yếu. Hệ thống đô thị phát triển chưa đồng bộ; thiếu liên kết giữa các đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, nông thôn; phát triển nhà ở xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh một số điểm sáng như liên kết giữa Hải Phòng và Quảng Ninh, việc hợp tác giữa các địa phương trong vùng nhìn chung chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp.

Toàn cảnh hội nghị - Ảnh: VGP
Toàn cảnh hội nghị – Ảnh: VGP

Nhấn mạnh tầm quan trọng của hạ tầng chiến lược và vấn đề liên kết, Thủ tướng lấy ví dụ, trước đây Nam Định có ưu thế phát triển hơn Hà Nam và Ninh Bình, nhưng hiện nay Hà Nam và Ninh Bình phát triển nhanh hơn, nguyên nhân quan trọng là hạ tầng giao thông kết nối của hai tỉnh này tốt hơn. Một ví dụ khác, khi Hải Phòng triển khai các công trình giao thông kết nối với Quảng Ninh và các tỉnh khác thì Hải Phòng phát triển bứt phá.

Vùng cũng chưa hình thành các cụm liên kết ngành, các vùng sản xuất nông sản tập trung. Tỷ lệ lao động nông nghiệp thiếu việc làm còn lớn; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn. Quản lý đất đai, tài nguyên môi trường còn bất cập; ô nhiễm môi trường còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Phát triển văn hóa – xã hội, đào tạo nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu; chất lượng y tế cơ sở còn hạn chế. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên một số địa bàn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp…

Thủ tướng chỉ ra một số nguyên nhân như nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Vùng còn chưa đầy đủ; tư duy, thể chế về liên kết chậm đổi mới. Chưa có chính sách đủ mạnh để tạo đột phá cần thiết cho vùng và một số địa phương trọng điểm. Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu liên kết, đồng bộ.

Nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, cơ cấu chưa hợp lý, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Nguồn lực bố trí thực hiện các công trình, dự án có tính liên kết vùng gặp khó khăn. Phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương còn chưa kịp thời, thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Phân cấp, phân quyền cho các địa phương chưa triệt để. Năng lực của một bộ phận cán bộ có mặt còn hạn chế, tính năng động, sáng tạo chưa cao…

“Phân tích như vậy để thấy chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Đội ngũ cán bộ phải dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì dân, vì nước, vì lợi ích chung để biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”, Thủ tướng nhấn mạnh.

QUÁN TRIỆT NGHIÊM TÚC 5 QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Thủ tướng đề nghị các bộ ngành và đặc biệt là các địa phương trong vùng nghiêm túc quán triệt 5 quan điểm phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng trong Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị.

Trong đó, Thủ tướng nhấn mạnh quan điểm: “Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước”.

Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển Vùng theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Trong đó, cần đặc biệt quan tâm tập trung một số lĩnh vực gồm hạ tầng chiến lược kết nối (gồm hạ tầng cứng và mềm, hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế…), chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường.

Phản ứng chính sách nhanh, kịp thời, hiệu quả trên cơ sở bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, lựa chọn ưu tiên phù hợp, triển khai công việc có trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu chắc đến đó, việc nào dứt việc đó.

Phát huy mạnh mẽ các nguồn lực cả công và tư; kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó nguồn lực bên trong là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, thường xuyên. Tự lực, tự cường đi lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của mình, không trông chờ, ỷ lại.

Tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.

Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

10 NHÓM NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CỤ THỂ

Chương trình hành động của Chính phủ đã cụ thể hóa Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển vùng, bảo đảm phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của Vùng. Thủ tướng nghị lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trong Vùng chỉ đạo nghiên cứu kỹ, xác định rõ lộ trình, bước đi phù hợp, với cách tiếp cận tổng thể, cách làm, tư duy mới, triển khai các giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cả nước Vì Đồng bằng sông Hồng; Đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước”.

Nhấn mạnh 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong Vùng khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ.

Thứ hai, tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách liên kết vùng đồng bộ, nhất quán, hiệu quả. Làm tốt công tác quy hoạch giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 để điều phối, quản lý thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và phát triển bền vững; sớm hoàn thành Quy hoạch Vùng trong năm 2023.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế biển. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ứng dụng nền tảng số, thân thiện với môi trường. Phân bố không gian công nghiệp hợp lý theo các hành lang kinh tế; hành lang công nghiệp, gắn với các cảng biển, các tuyến cao tốc, tuyến quốc lộ kết nối với các vùng lân cận.

Phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Hình thành các cụm liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản gắn với doanh nghiệp, hợp tác xã.

Đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng. Phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng, trọng tâm là phát triển thương mại, logistics, du lịch, tài chính – ngân hàng, các trung tâm du lịch tầm khu vực và quốc tế, trên cơ sở phát huy bản sắc độc đáo riêng có; gắn phát triển làng nghề truyền thống với phát triển du lịch.

Phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò động lực của các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị ven biển, trung tâm du lịch, dịch vụ logistics.

Thứ tư, về phát triển hệ thống đô thị và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, Thủ tướng yêu cầu phát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bền vững, theo mạng lưới và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hình thành các chuỗi đô thị, chuỗi đô thị thuộc các hành lang kinh tế gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ logistics.

Ưu tiên nguồn lực xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế; phát triển vận tải đa phương thức. Đầu tư, nâng cấp các tuyến cao tốc, quốc lộ, đường sắt tốc độ cao, đường sắt kết nối nội vùng, cảng biển; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, nâng cao hiệu quả khai thác đường thủy nội địa, cảng hàng không, cảng biển quốc tế.

Thứ năm, về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, Thủ tướng yêu cầu phát triển vùng trở thành trung tâm khoa học – công nghệ gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu của cả nước. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết, đầu tư, phát triển khoa học công nghệ.

Xây dựng và phát triển các khu, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, khu công nghệ cao. Nghiên cứu xây dựng Trung tâm Khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo Vùng. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Vùng. Thủ tướng lưu ý Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương bàn giao Khu công nghệ cao Hòa Lạc về thành phố Hà Nội, đồng thời Bộ phát huy vai trò kiến tạo để đất nước có thêm nhiều khu công nghệ cao khác.

Thứ sáu, Thủ tướng yêu cầu phát huy vai trò là trung tâm hàng đầu cả nước về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đẩy mạnh xã hội hóa và tự chủ đại học. Tăng cường nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề. Phát triển thị trường lao động hiện đại, hội nhập, hiệu quả; tăng cường kết nối cung cầu lao động nội vùng, liên vùng.

Thứ bảy, về phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Thủ tướng nhấn mạnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “văn hóa còn thì dân tộc còn”. Cần phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức sáng tạo, khát vọng phát triển phồn vinh. Phát triển các sản phẩm, dịch vụ gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản, bản sắc văn hóa. Chú trọng quy hoạch, đầu tư các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa tiêu biểu. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; triển khai hiệu quả 3 chương trình mục tiêu quốc gia.

Lãnh đạo bộ, ngành, các nhà đầu tư trao quyết định chủ trương đầu tư và phê duyệt đầu tư vào Vùng Đồng bằng sông Hồng - Ảnh: VGP
Lãnh đạo bộ, ngành, các nhà đầu tư trao quyết định chủ trương đầu tư và phê duyệt đầu tư vào Vùng Đồng bằng sông Hồng – Ảnh: VGP

Thứ tám, Thủ tướng yêu cầu sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đất đai, nước. Đẩy mạnh liên kết trong bảo tồn, khai thác sử dụng tài nguyên, đa dạng sinh học; tăng cường kiểm soát chặt chẽ chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tăng cường công tác phối hợp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, xử lý rác thải, chất thải, nước thải gắn với thích ứng biển đổi khí hậu và nước biển dâng.

Thứ chín, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Thủ tướng đề nghị thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo, không để bị động, bất ngờ. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tăng cường trấn áp các loại tội phạm. Chủ động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa chính trị, đa dạng hóa đối tác; khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, nâng cao hiệu quả hợp tác phát triển và giao lưu quốc tế, nhất là đối với các thị trường lớn, tiềm năng.

Thứ mười, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu giữ vững đoàn kết, thống nhất, huy động sức mạnh tổng hợp; xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có chuyển giao, kế thừa. Không ngừng củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, góp phần bảo đảm “phên dậu” về quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Nguồn: https://vneconomy.vn/thu-tuong-vung-dong-bang-song-hong-phai-dan-dat-qua-trinh-co-cau-lai-nen-kinh-te-va-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-cua-ca-nuoc.htm

[ad_2]