[ad_1]
Chữ “Nữ” (女) là chữ tượng hình, vẽ một người con gái mặt hơi nghiêng, hai tay chạm nhẹ vào eo bên trái, khẽ khụyu gối, nhún mình theo tư thế chào hỏi truyền thống, ngay ngắn, trang nghiêm, an hòa, khiêm nhường, trông rất mềm mại nhu mì. Chữ “An” – Bình an (安) chữ Hán viết gồm bộ “Miên” (宀) nghĩa là mái nhà, và chữ “Nữ”. Theo quan niệm truyền thống, khi người phụ nữ ở dưới mái nhà, làm tốt bổn phận của mình, gia đình sẽ An, mọi thứ sẽ thuận buồm xuôi gió.
Cách để thuận là người phụ nữ hạ thấp bớt cái tôi của mình (tư thế nửa quỳ)
Chữ Nam (男) trên là bộ điền dưới là bộ lực, ngụ ý là người đàn ông có trách nhiệm kiếm tiền, trụ cột nuôi dưỡng gia đình. Nam chủ ngoại nữ chủ nội. Người phụ nữ lại được coi là nội tướng, chu toàn hết mọi sự trong gia đình. Cổ ngữ có câu: “Thê hiền phu an” (nghĩa là: có người vợ hiền thì người chồng mới có thể an tâm lập nghiệp) là có ý như vậy.
Tuy nhiên ngày nay, phụ nữ cũng phải ra ngoài, nhà thiếu vắng người lo toan nội trợ, chăm sóc con cái, phụng dưỡng cha mẹ già, hoặc có lo cũng không xuể vì sức người có hạn, thời gian có hạn, lại phải làm thêm việc nặng là kiếm tiền – vốn lẽ ra là việc của đàn ông.
Dĩ nhiên, người đàn ông khi trở về nhà không còn như xưa, được người vợ dịu dàng ra chào đón, săn sóc, được kính trọng, được nghỉ ngơi, lắng dịu sau những bôn ba vất vả để tiếp tục kiếm tiền nuôi dưỡng gia đình. Người đàn ông thời nay mà về nhà lại đối mặt với nhiều đều phiền toái, vợ đi làm về thì cũng mệt mỏi, rồi bắt đầu phân chia việc nhà, đàn ông cũng dần trở thành phụ nữ, mất đi chí lớn, chỉ quanh quẩn với những chuyện trong gia đình.
Áp lực lên cả hai phía nhiều hơn. Người đàn ông không có nơi để lắng tâm nghỉ ngơi và được sự dịu dàng của người phụ nữ vỗ về, an ủi. Cả hai đều cần người còn lại xoa dịu chia sẻ nhưng thật không dễ vì hai người đều mệt nhoài, chỉ còn cố gắng kiềm chế không trút cơn giận lên nhau đã là thành công rồi. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến nhà bất an, nhà không an thì xã hội cũng bất an.
“Kinh Dịch” miêu tả quy luật vận hành của vũ trụ, tư tưởng trung tâm cuối cùng quy về Âm Dương cân bằng. Người xưa luôn lấy Thiên đạo làm Nhân đạo. Đạo làm người cũng lấy Âm Dương cân bằng quy chiếu mới đạt đến sự hài hòa với Thiên lý.
Đạo vợ chồng lấy “Nam cương Nữ nhu”, “Nam tôn Nữ ti” làm chuẩn tắc đều có nội hàm đạo lý hòa hợp với Thiên Đạo ở trong đó.
Trong “Kinh Dịch Hệ Từ” có viết: “Thiên tôn địa ti, càn khôn định hĩ. Ti cao dĩ trần, quý tiện vị hĩ … càn đạo thành nam, khôn đạo thành nữ”. (Trời ở trên cao, Đất ở dưới thấp, càn khôn đã được định rõ vậy. Lấy tôn cao ti thấp định rõ, địa vị cao thấp ra sao đã sẵn ở vị trí đó rồi … Cung Càn tạo thành Nam, cung Khôn tạo thành Nữ).
Nam tôn: Làm một người đàn ông – muốn hợp với “Đạo”, nhất thiết phải giống như Trời. Cao vang công chính (ở địa thế trên cao, âm thanh vang rộng công bằng chính trực), tự cường bất tức (tự mình cố gắng mạnh mẽ không nghỉ)
Nữ ti: Làm một người phụ nữ, nếu muốn hợp với “Đạo”, nhất định phải giống như Đất, khiêm nhường, bao dung, chính là: Đất ở tại vị trí của cung Khôn, lấy đức dày mà chở vạn vật.
Như vậy, Nam tôn Nữ ti không có hàm ý trên dưới mà đề xướng hòa hợp của tự nhiên, âm dương đều có an bài vị trí của mình, là đạo hoà hợp của đất trời. Người hiện đại bị văn hoá tranh đấu đầu độc nên mới cho rằng văn hóa truyền thống trọng nam khinh nữ, vì thế mà bất phục, kêu gọi nữ giới phải ‘vùng lên’ chứng tỏ cái vị thế độc lập của mình.
Kỳ thực, “Nam tôn Nữ ti” chính là đạo lý nam nữ nên sống hài hòa như thế nào trong hôn nhân và đời người.
Người phụ nữ có thùy mị, nhu hòa thì người đàn ông mới toả sáng cái địa vị đại trương phu. Nếu người phụ nữ cũng mạnh mẽ như nam thì hình ảnh người nam còn chi là cương cường hảo hán. Người đàn ông khi tỏ được cái vị thế cường thịnh của mình thì chẳng phải chính là chỗ dựa vững chắc của người phụ nữ hay sao.
Hiểu cái lẽ ấy thì ai cũng giữ cho tròn cái đạo làm người trong vị thế của mình, dù là thời nào đi nữa thì nam giới cũng phải là người mạnh mẽ, cứng rắn, còn nữ giới phải ôn nhu, mềm mại, kín đáo thì mới phù hợp với Thiên đạo.
Người ta trong mê không ngộ, cứ muốn nữ phải bình đẳng như nam, kỳ thực cứ làm một người phụ nữ ôn hoà, nhu thuận khiêm cung thì đã có thể đắc được tất cả những gì nên có, đâu cần phải tranh đấu ngược xuôi.
Một người đàn ông phẩm cách cao thượng, người phụ nữ tự nhiên sẽ tôn trọng anh ta, thuận theo anh ta. Trong gia đình, nam nhân chính trực cao thượng, nữ nhân nhã nhặn khiêm hòa, khoan dung; thì gia đình không có một lý do nào của sự bất hòa.
Đó chính là cái đạo Tam tòng tứ đức vốn dĩ rất đẹp thời xưa.. Ngày nay, âm dương đảo ngược, âm thịnh dương suy… đều là biểu hiện của sự biến dị trái với Thiên lý.
Người phụ nữ trong văn hóa truyền thống chính là nhân duyên, phong thủy của gia đình
Người phụ nữ giống như nước, ở vào vật chứa hình vuông thì sẽ có hình vuông, vật chứa hình tròn thì sẽ là hình tròn, thích ứng với mọi hoàn cảnh, giàu nghèo, cao thấp, khiêm nhường, nhẫn nhịn ở nơi thấp nhất, nhưng tấm lòng bao dung mà chứa hết thảy vạn vật. Trăm sông vì thế mà chảy về biển. Người phụ nữ phải có “tính theo thiên lý”, “tâm theo đạo lý” và “thân theo tình lý” mới toả sáng được vị trí của mình và trợ giúp chồng khẳng định địa vị tôn quý của bậc đại trượng phu.
“Thân theo tình lý”, ý rằng người phụ nữ ở nhà thì theo cha (mẹ), lấy chồng thì theo chồng, chồng mất thì theo con. Chính là đạo tam tòng của người xưa. “Vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Nôm na là ở nhà thì theo cha, xuất gia ‘lấy chồng’ thì theo chồng, chồng chết thì theo con trai). Chữ tòng (tùng) ở đây có nghĩa là tùy tùng, theo…
“Tâm theo đạo lý” là ý nói rằng: người phụ nữ trong gia đình phải sống có đạo, đạo làm vợ, với chồng thì thủy chung, son sắt, với cha mẹ chồng thì hiếu thảo kinh trọng, với chị em dâu thì hòa thuận, vui vẻ, với con cái thì mẫu mực, chăm sóc.
“Tính theo thiên lý” là lấy bản tính nguyên sơ trời ban cho người phụ nữ làm tính cách: dịu dàng, thiện lương, thuần khiết, thủy chung, người phụ nữ có phẩm hạnh như thế mới có đức dày để nâng đỡ mọi vật.
Người vợ mà không việc gì dám làm, việc gì cũng ỷ lại vào người chồng, ỷ lại vào cha mẹ được gọi là nhược phụ (người phụ nữ yếu kém). Người vợ như thế, “hết ăn lại nằm”, “oán trời trách đất”, quét sạch may mắn của gia đình.
Một gia đình có yên vui hay không, an tĩnh hay không, thịnh vượng phát đạt hay không thì sự ảnh hưởng của người vợ là vô cùng trọng yếu. Người phụ nữ có thể dưỡng tính như nước thì nhất định sẽ giúp chồng thành đức, gia đình viên mãn.
Người phụ nữ được ví là phong thủy, là phúc khí quyết định sự thịnh suy của một gia đình. Mỗi người phụ nữ có một cá tính khác nhau, có người ôn nhu hiền hòa, có người lại mạnh mẽ hoạt bát. Nhưng cho dù là cá tính gì thì người phụ nữ cũng không thể thiếu khí chất. Phụ nữ một khi thiếu khí chất thì tựa như một bông hoa hữu sắc vô hương.
Xã hội hiện đại đề cao nữ quyền ngày nay không ngưng tuyên truyền giải phóng tình dục, cho rằng nhu mềm là yếu nhược, mạnh ức hiếp yếu, khôn thì sống mà dại thì chết, cho rằng phụ nữ có thể gánh được nửa bầu trời… khiến cho các gia đình càng ngày càng sóng gió, bất hòa.
Trong «Nữ giới» sử học gia Huệ Ban viết:
“Đặc tính âm-dương hai bên là bất đồng, hành vi nam-nữ cũng có sự khác biệt. Dương tính lấy cương cường làm phẩm cách, âm tính lấy ôn nhu làm biểu trưng; nam nhân lấy cường tráng làm cao quý, nữ nhân lấy mềm yếu làm mỹ lệ”.
Khi xảy ra mâu thuẫn, người nữ đã thực sự lấy nhu thuận, cung kính làm lễ nghĩa hàng đầu chưa? Sự khiêm nhường đó là mỹ đức, phản ánh sự thông minh của nữ giới, lấy nhu thắng cương, tuyệt nhiên không phải một sự chịu nhục hay thua thiệt.
Nữ nhân cần rèn luyện tính cung kính là một điều rất trọng yếu, tránh quá cương cường mà mất đi vẻ nhu thuận. Do đó mới nói cung kính nhu thuận là lễ nghĩa đứng đầu của người phụ nữ.”
“Cung kính không đòi hỏi điều gì khác, chỉ cần kiên trì bền bỉ; nhu thuận không đòi hỏi điều gì khác, chỉ cần khoan dung nhẫn nại. Người trường kỳ gìn giữ sự cung kính sẽ biết có chừng mực, khoan dung với người khác, đã thiện lại cung kính.”
Khổng Tử đã đưa ra thuyết “Tam tòng, Tứ đức” với các chuẩn mực: Công- Dung- Ngôn- Hạnh, là các tiêu chuẩn cơ bản mà mỗi phụ nữ cần tu dưỡng, hoàn thiện mình. Trong đó “cung kính, nhu thuận” là lễ nghĩa đứng đầu của người phụ nữ. Vợ chồng lấy âm-dương hài hoà làm đạo lý, với nhau có thể “tương kính như tân”, ai cũng giữ đúng cái vị thế của mình trong sự hoà hợp với Thiên lý, có như vậy quan hệ phu thê mới hài hòa và mỹ mãn, gia đình không thể nào bất hoà.
Trưởng Tôn Hoàng Hậu – người vợ hiền hậu nhân đức
“Trong nhà có người vợ hiền lương, giống như quốc gia có vị tể tướng tài đức”. Những người vợ hiền hậu trong lịch sử, vợ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân – Trưởng Tôn Hoàng Hậu chiếm vị trí đầu tiên về làm việc nhân đức không chểnh mảng.
Trưởng Tôn Vô Kỵ là anh trai của Trưởng Tôn Hoàng Hậu, là bạn tri kỷ với Lý Thế Dân, giúp đỡ Lý Thế Dân thắng lợi lấy được thiên hạ. Đường Thái Tông muốn để cho Trưởng Tôn Vô Kỵ nhậm chức Tể Tướng, Trưởng Tôn Hoàng Hậu lại bẩm tấu rằng: “Thiếp đã được lập làm Hoàng Hậu, tôn quý vô cùng, thiếp thực sự không muốn để huynh đệ con cháu của mình phân bố đưa vào hàng ngũ triều đình. Lữ Hậu của Hán Triều, bỗng nhiên cả gia đình được vinh quang, có thể thấy bài học lịch sử mà làm tấm gương cho mình. Vì vậy, thiếp xin bệ hạ nhất định đừng để huynh trưởng ca ca nhậm chức tể tướng”.
Dưới sự nhún nhường ba lần của Trưởng Tôn Hoàng Hậu, Đường Thái Tông chỉ có thể để Trưởng Tôn Vô Kỵ đảm nhận một chức vị hư danh “Khai Phủ Nghi Đồng Tam Tư” như vậy.
Khi con gái của Trưởng Tôn Hoàng Hậu – Trưởng Nhạc Công Chúa xuất giá, Đường Thái Tông ban thưởng vật phẩm cho con gái nhiều hơn gấp đôi so với vật phẩm xuất giá của con gái Đường Cao Tổ – Trưởng Công Chúa. Chính vì điều này, Ngụy Trưng ở trước mặt Đường Thái Tông đề xuất ý kiến bất đồng.
Trưởng Tôn Hoàng Hậu sau khi biết được, không những không trách tội Ngụy Trưng, mà còn khen ngợi thêm nữa. Dưới sự lo liệu của Trưởng Tôn Hoàng Hậu, Trưởng Tôn Công Chúa đã không mang theo bất kỳ vật phẩm hồi môn phong hậu nào.
Trưởng Tôn Hoàng Hậu bình thường lời nói và việc làm, tuân thủ lễ chế, từ trước giờ không can dự sự việc chính trị triều đình. Nhưng bởi vì Trưởng Tôn Hoàng Hậu lời nói đoan chính ngay thẳng, Đường Thái Tông đối với vợ mười phân xem trọng, thường cùng với vợ đàm luận chuyện quốc gia đại sự, đề cập đến các vấn đề chi tiết thưởng phạt.
Trưởng Tôn Hoàng Hậu không muốn để bản thân mình đảm nhận thân phận đặc thù nào can dự vào chuyện quốc gia đại sự, bà cho rằng nam nữ là khác nhau, nên tự mình đảm nhận trách nhiệm chức vụ của riêng mình.
Bà không can dự triều chính, lại có thể luôn luôn có những lời khuyên can có lợi đối với Lý Thế Dân, giúp đỡ trượng phu xử lý tốt quan hệ vua tôi, bổ nhiệm quần thần chính trực mà xa rời nịnh thần.
Tể tướng Ngụy Trưng trực ngôn can gián, gặp phải Lý Thế Dân làm những sự việc không đúng, ngay lập tức dám bước ra khuyên can, có lúc làm cho Lý Thế Dân rơi vào tình huống khó xử. Một lần, Đường Thái Tông muốn đi ra ngoại thành săn bắn, vừa mới xuất cung ra khỏi cửa, gặp ngay Ngụy Trưng ở đối diện, Ngụy Trưng thăm hỏi hiểu rõ tình huống, lập tức nêu lên ý kiến thưa với Đường Thái Tông rằng: “Trước mắt hiện đang vào giữa tiết xuân, vạn vật nảy mầm sinh trường, cầm thú mớm mồi cho con trẻ, không thích hợp đi săn, thỉnh bệ hạ hãy hồi cung”.
Đường Thái Tông nhất quyết muốn đi, Ngụy Trưng không chịu thỏa hiệp, đứng ở giữa đường kiên quyết cản lối ra của Đường Thái Tông. Đường Thái Tông trong cơn tức giận không thể ngăn trở, nổi giận đùng đùng xuống ngựa quay về cung.
Đường Thái Tông quay về cung gặp Trưởng Tôn Hoàng Hậu, vẫn còn đang tức giận mà nói: “Nhất định phải đem lão già ngoan cố Ngụy Trưng giết chết đi, mới có thể trút hết cơn giận dữ của ta!”
Trưởng Tôn Hoàng Hậu hỏi rõ nguyên do sự tình, thì lặng lẽ quay vào nội thất mặc lễ phục đội mũ, sau đó nét mặt trang trọng đến trước Đường Thái Tông, khấu đầu hành lễ, miệng nói ngay: “Chúc mừng bệ hạ!“.
Hành động cư xử này của bà khiến Đường Thái Tông kinh ngạc hỏi: “Có việc gì lại thận trọng như vậy?”
Trưởng Tôn Hoàng Hậu trịnh trọng trang nghiêm nói: “Thiếp từng được nghe, nếu hoàng thượng anh minh, thì đại thần sẽ hết mực trung thành. Giống như hôm nay Bệ hạ thánh minh, nên Ngụy Trưng mới dám nói lời ngay thẳng như vậy. Thiếp thân là hoàng hậu, nhìn thấy hoàng đế anh minh thần tử trung thành, một việc tốt như vậy, thiếp làm sao dám không mặc triều phục để chúc mừng bệ hạ?”
Đường Thái Tông nghe thấy vợ mình nói lời như vậy, có phần cảm động thấu hiểu, giận dữ cũng từ từ tiêu tan đi.
Năm Trinh Quán thứ 8, khi Trưởng Tôn Hoàng Hậu cùng Đường Thái Tông đi Cửu Thành Cung tránh nắng, thân thể mắc bệnh đau ốm, bệnh tình lại càng ngày càng trầm trọng, đã dùng rất nhiều thuốc, mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Lúc đó, Thái tử Lý Thừa Càn ở bên cạnh chăm sóc mẫu thân đã đề xuất dùng phương pháp đặc xá phạm nhân và độ người nhập Đạo v.v…, để cầu xin Thần Phật phù hộ, nhưng đều bị Hoàng Hậu kiên quyết từ chối.
Bà nói: “Đại xá là chuyện quốc gia đại sự, Phật, Đạo hai giáo đều tự có giáo quy. Nếu như có thể tùy tiện đặc xá tội nhân và độ người nhập Đạo, thì nhất định sẽ làm tổn hại đến chính thể của quốc gia, mà đây cũng là điều mà cha của con không muốn như vậy. Ta sao có thể để một vị phu nhân mà làm loạn Pháp lý của thiên hạ”.
Thái tử nghe xong, thì không dám đến gặp Thái Tông để thỉnh cầu. Thái Tông sau khi biết được, cảm động rơi lệ, khóc thầm không thành tiếng.
Vào năm Trinh Quán thứ 10, Trưởng Tôn Hoàng Hậu băng hà tạ thế tại điện Lập Chính, hưởng thọ 36 tuổi. Khi Trưởng Tôn Hoàng Hậu qua đời, Đường Thái Tông vô cùng đau khổ, cảm thấy từ bây giờ “mất đi 1 vị phò tá hiền lương!”.
Khi Đường Thái Tông tại vị, sáng suốt sửa đổi chính trị, kinh tế phồn vinh, trong lịch sử được gọi là “Thái bình Trinh Quán”. Cùng với ông có Trưởng Tôn Hoàng Hậu, một vị hiền thê phò trợ bên trong, nên nói là không thể không có quan hệ.
[ad_2]