[ad_1]
Có một thiền sư đã nói: “Tâm bình thế giới bình”, hay Phật gia có câu: “Tu kỷ lợi ư dân”, đại ý là, người tu luyện, tu sửa chính mình, thì không những có lợi cho mình, mà còn có lợi cho mọi người dân.
Trong tâm tôi vẫn còn có chủ nhân
Hứa Hoành là nhà tư tưởng, nhà giáo dục và là nhà thiên văn lịch pháp kiệt xuất cổ đại. Một năm vào mùa hạ, xảy ra loạn lạc, Hứa Hoành cùng rất nhiều người cùng chạy nạn. Khi đi qua Hà Dương, do đường dài xa xôi, lại mùa hè nóng nực, mọi người đều cảm thấy đói khát khó bề chịu nổi.
Lúc này có người đột nhiên phát hiện ra ở ven đường gần đó có một cây lê rất lớn, trên cây đầy những trái lê mát ngọt. Thế là mọi người đều tranh nhau trèo lên cây lê hái quả ăn, duy chỉ có một mình Hứa Hoành vẫn ngồi ngay ngắn dưới gốc cây không hề động tâm.
Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ, có người hỏi Hứa Hoành: “Tại sao ông không hái mấy quả lê giải khát?”. Hứa Hoành trả lời: “Không phải lê của mình, sao có thể hái bừa”. Người hỏi không nín được cười phá lên, nói rằng: “Hiện nay thời cuộc loạn như thế này, mọi người ai nấy đều chạy nạn, chủ nhân của cây lê này đã không còn ở đây từ lâu rồi. Không có chủ nhân, việc gì ông phải ý tứ?”.
Hứa Hoành nói: “Cây lê không có chủ nhân, chẳng lẽ cái tâm của tôi cũng không có chủ nhân sao?”. Hứa Hoành vẫn trước sau như một nhất định không hái lê.
Hai bình đậu của đại học sỹ Từ Bạc đời Minh
Đại học sỹ Từ Bạc đời Minh từ nhỏ thiên chất thông minh, khắc khổ học hành. Từ Bạc thuở thiếu thời tính tình trầm tĩnh, cử chỉ già dặn. Khi ông học ở trường tư thục, chưa từng nói cười cẩu thả. Một hôm thầy giáo phát hiện ra ông thường lấy một quyển sổ nhỏ từ trong túi ra xem, cho rằng đó là đồ chơi của trẻ con, đến khi lại gần mới phát hiện ra, đó là quyển sách nhỏ do chính Từ Bạc chép các ngữ lục kinh điển Nho gia, do đó thầy vô cùng tán thưởng ông.
Từ Bạc còn học theo cổ nhân, không ngừng tự kiểm điểm ngôn hành của mình, trên bàn học có đặt hai cái bình, chứa đậu đen và đậu vàng (đậu tương). Mỗi lần trong tâm nảy sinh một thiện niệm, hoặc nói một câu thiện ngôn, hoặc làm một việc thiện, ông bèn cho một hạt đậu vàng vào bình. Ngược lại, nếu ngôn hành có gì sai trái, ông bèn bỏ một hạt đậu đen vào bình kia.
Ban đầu, đậu đen nhiều, đậu vàng ít, ông không ngừng nỗ lực phản tỉnh kiểm điểm mình, khích lệ mình. Dần dần đậu đen và đậu vàng bằng nhau. Ông lại tiếp tục nghiêm khắc hơn yêu cầu bản thân. Dần dà, bình đậu vàng càng ngày càng nhiều, so sánh ra thì đậu đen quá ít ỏi, không đáng kể. Mãi cho đến sau này ông làm quan, ông vẫn giữ thói quen này.
Nhờ ước thúc và khích lệ lâu dài như thế này, ông đã không ngừng tu luyện bản thân, hoàn thiện phẩm đức của mình, sau này cuối cùng cũng đã trở thành một danh thần đức cao vọng trọng của một thời.
Những ước thúc tiêu chuẩn cao của Từ Bạc đối với hành vi của mình đã biểu thị ra ý thức tự luật rất mãnh liệt của ông. Mặc dù khi ở một mình, ông cũng tự giác nghiêm khắc giữ kỷ luật, cẩn thận đối đãi với mỗi lời nói mỗi việc làm của mình. Cẩn thận khi ở một mình (Thận độc) là cảnh giới tối cao của tự giác chấp hành kỷ luật (tự luật). Nó khiến cho một người làm việc độc lập, không có ai giám sát vẫn có thể giữ mình không bị vật chất khống chế, mà lại không hề lơi lỏng mức độ tự giám sát bản thân, cẩn thận tự giác chiểu theo chuẩn mực đạo đức để quy phạm hành vi lời nói của mình, vẫn luôn luôn giữ tự giác đạo đức như xưa.
*********
Lão Tử nói:
“Đạo mất thì mới sinh đức, đức mất thì mới sinh nhân, nhân mất thì mới sinh nghĩa, nghĩa mất thì mới sinh lễ”.
Khi mà cả lễ nghi, phép tắc cư xử giữa người, hiếu thuận cha mẹ, kính trọng người trên, hiếu đễ với anh chị, trung tín với bạn bè, nhường nhịn với người dưới… cũng bị mất thì sinh ra pháp luật, hình phạt để răn đe, cưỡng ép con người.
Thời thượng cổ, khi các Thánh nhân như vua Nghiêu, Thuấn cai quản, họ đều là những người tu Đạo, đồng hóa với Đạo, nên mọi hành động, lời nói, chính lệnh đã hợp với Đạo, nên cũng không cần giảng về Nhân. Thời đó con người cũng sống chân thật, đơn giản, thuần thiện, chất phác, cả xã hội đều rất gần với Đạo, nên cũng không cần giảng nhân nghĩa, lễ nghĩa, phép tắc, luật pháp, hình phạt. Đây là thời kỳ dùng Đạo và Đức cai quản xã hội.
Đến thời nhà Thương, con người đã xa rời chính Đạo, say mê vào các phương thuật, vu thuật, phong khí đồng cốt thịnh hành. Những kẻ giả Thần, giả Thánh, giả tu khuynh loát triều chính và xã hội. Các nghi thức tế lễ càng ngày càng cầu kỳ, càng chú trọng lễ vật cúng tế, và đã xuất hiện tế sống động vật, rồi đến tế sống người, chôn người sống theo người chết. Xã hội bắt đầu đi vào mê tín, dã man. Đây là thời kỳ Đạo mất, Đức mất, trong khi Nhân chưa được sinh ra.
Nhà Chu ứng với Thiên mệnh xuất hiện, diệt Thương Trụ, dẹp phong khí đồng cốt, trừ các tệ nạn man rợ, xây dựng nền chính trị nhân nghĩa, lấy lễ nhạc giáo hóa muôn dân. Đây chính là thời kỳ dùng Nhân trị. Tuy nhiên, xã hội con người phức tạp, nhiều vùng chưa được giáo hóa, nên phải dùng thêm Lễ – Nhạc để giáo hóa muôn dân, quy chính lại nhân tâm, trừ bỏ những tàn tích tà ác rơi rớt lại sau thời nhà Thương.
Đến thời Xuân Thu, thời mà Khổng Tử nói là “Lễ băng nhạc hoại”, nền Nhân chính của nhà Chu đã mai một, lễ nhạc không còn thuần thiện nữa. Lễ nghi phép tắc bị bãi bỏ, các chư hầu, lãnh chúa phong ấp đều đua nhau lấn chiếm đất của nhau, đánh giết nhau, ai ai cũng muốn mình làm vua làm chúa, muốn thống trị kẻ khác. Còn nhạc vũ không còn mang những âm vận hài hòa với tự nhiên, hợp với Đạo nữa, các khúc nhạc xưa bị bãi bỏ, chư hầu các nước đua nhau đặt ra các khúc nhạc riêng, đều là những khúc nhạc dâm dật, hưởng lạc.
Khổng Tử ứng với Thiên mệnh sinh ra để khôi phục lại nền Nhân chính và chế độ Lễ nhạc thời Chu của Chu Công, Văn Vương, Võ Vương. Nhưng Khổng Tử đi chu du liệt quốc truyền bá tư tưởng Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, của Nho học, nhưng xã hội suy vi, lòng người sa sút, không nước nào tiếp thu.
Các nước chư hầu chỉ muốn sao tranh giành chiếm đoạt được thêm đất đai bờ cõi, thêm tài sản, của cải, nhân lực, nên chỉ áp dụng các tư tưởng binh gia (quân sự) và pháp gia (luật pháp). Đây chính là thời Lễ mất thì sinh pháp luật. Thời này điển hình là nhà Tần áp dụng hình pháp của Thương Ưởng, tuy khiến xã hội ổn định tạm thời, nhưng người người e dè sợ sệt nhau, rồi cuối cùng cũng sinh loạn lạc.
Từ thời Hán trở đi, tư tưởng Nhân–Nghĩa–Lễ–Trí –Tín được áp dụng vào quản lý xã hội, đã mở ra thời kỳ thịnh trị của nhà Đường, và duy trì xã hội khá ổn định khoảng 2000 năm mãi đến đầu thế kỷ 20. Tư tưởng Nho gia cũng lan tỏa, phát triển khắp các nước Á Đông, và sau này còn có ảnh hưởng lớn đến các nước phương Tây.
Trong xã hội hiện nay, có luật pháp mà nhiều người vẫn không tuân theo, các tệ nạn xã hội trộm cắp, cướp giết, lừa đảo, tham nhũng, buôn gian bán lận, cậy quyền thế bẻ cong pháp luật, cậy tiền tài mua chuộc hối lộ tư pháp, dân oan khiếu kiện khắp nơi. Rồi các tệ nạn xã hội như nghiện ma túy, cờ bạc, đề đóm, mại dâm, ấu dâm, buôn bán phụ nữ, buôn bán người, bắt cóc tống tiến, ngoại tình, nát rượu… cũng xảy ra mọi lúc mọi nơi, khiến con người trở nên trơ lì, vô cảm với các tệ nạn xã hội.
Xã hội như thế này chưa từng xuất hiện trong lịch sử. Xưa lễ mất thì sinh pháp luật. Con người vẫn sợ sự trừng phạt của pháp luật mà không dám làm càn. Ngày nay pháp luật không được tôn trọng, có thể nói là pháp luật mất thì sinh loạn. Ấy vậy mà vẫn nhiều người vẫn ung dung nhởn nhơ, coi rằng xã hội như thế này là bình thường, là yên ổn, bình yên thì đúng là không thể hiểu nổi. Có lẽ họ so sánh với giai đoạn chiến tranh, hoặc so sánh với mấy khu vực đang có chiến tranh loạn lạc trên thế giới, nên mới có cách nhìn như vậy.
Để xã hội thái bình thịnh trị, người dân yên ổn, an cư lạc nghiệp, không phải lo cướp giật, trộm cướp, không phải lo cho an toàn của con em và bản thân cũng như gia đình, thì chỉ có mỗi người chúng ta tự đặt ra tiêu chuẩn cao cho mình, và tự giác chấp hành, cho dù chỉ có một mình cũng không vi phạm.
Nghĩa là “tự luật” (tự giác tuân thủ luật pháp, kỷ luật) sẽ là tiêu chuẩn đánh giá bậc chính nhân quân tử với bậc ngụy quân tử, kẻ giả nhân giả nghĩa, đánh giá bậc chân tu với kẻ giả tu, đánh giá người ngoan Đạo với kẻ giả Đạo. Tự luật sẽ phân biệt chính xác thật giả chính tà, những kẻ dựa vào vị trí, quyền hành, chức nghiệp, vẫn rao giảng dạy mọi người, nhưng thực chấp miệng Nam Mô bụng bồ dao găm, nếu dùng “tự luật” soi xét, thì sẽ cháy nhà ra mặt chuột ngay thôi.
Tự luật sẽ giúp bản thân đạo đức phẩm hạnh cũng như cảnh giới tinh thần nâng cao, và giúp cho xã hội yên bình trở lại. Người tự luật sẽ luôn thấy tâm thái yên bình, do lúc nào cũng có chủ nhân làm chủ con tim. Có một thiền sư đã nói: “Tâm bình thế giới bình”, hay Phật gia có câu: “Tu kỷ lợi ư dân”, đại ý là, người tu luyện, tu sửa chính mình, thì không những có lợi cho mình, mà còn có lợi cho mọi người dân.
Theo : DKN.TVZV
[ad_2]