[ad_1]

Một niệm khởi sinh, định ra cửa phúc họa
Ảnh: dkn

Ở Trung Quốc cổ đại, để điều phục những tư tưởng xấu, con người đã thời thời khắc khắc thực hành các phương pháp ngăn chặn tà niệm, để lại nhiều câu chuyện kỳ ​​diệu.

Người xưa có câu: “Người làm việc thiện, giống như cỏ mùa xuân, không thấy sinh trưởng, lâu ngày sinh sôi; người làm việc ác, giống như đá mài dao, không thấy hao tổn, lâu ngày mới mòn”.

Khi trong tâm một người không động niệm, trong tâm người ấy trong sáng tựa mặt hồ trong vắt không gợn sóng. Trong tâm hễ động, hồ nước yên tĩnh có những gợn sóng vô hạn. Ý nghĩ tốt giống như mặt trời rực rỡ, chiếu sáng bản thân và khúc xạ người khác; ý nghĩ xấu giống như những đám mây đen, bao phủ trái tim họ và phủ bóng tối lên người khác. Ở Trung Quốc cổ đại, để điều phục những tư tưởng xấu, con người đã thời thời khắc khắc thực hành các phương pháp ngăn chặn tà niệm, để lại nhiều câu chuyện kỳ ​​diệu.

Đậu trắng tính thiện niệm, đậu đen tính ác niệm

Vào thời nhà Tống, có một người tên là Triệu Khang Tĩnh, vô cùng coi trọng tu dưỡng tâm tính. Anh ta đã dùng cách chuẩn bị một cái lọ và hai loại đậu đen và trắng. Bất cứ khi nào trong lòng nảy sinh ý nghĩ tốt thì bỏ một hạt đậu trắng vào trong bình; nếu trong lòng nảy sinh một ý nghĩ xấu thì sẽ bỏ một hạt đậu đen vào trong bình.

Khi mới bắt đầu, có rất nhiều hạt đậu đen ném vào trong bình. Với sự nỗ lực của anh, những hạt đậu đen cho vào bình vơi dần, cuối cùng khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, không còn hai niệm thiện ác, cả bình và đậu đều không cần dùng đến nữa.

Người xưa nói: “Người làm việc thiện, giống như cỏ mùa xuân, không thấy sinh trưởng, lâu ngày sinh sôi; người làm việc ác, giống như đá mài dao, không thấy hao tổn, lâu ngày mới mòn”.

Phúc họa một đời người, tùy theo niệm đầu mà biến đổi, trong khi không biết không cảm thấy mà phát sinh biến hóa.

Một niệm khởi sinh, định ra cửa phúc họa

Vệ Trọng Đạt triều đại nhà Tống ban đầu là một viên quan trong Viện Hàn Lâm. Một đêm nọ, ông mơ thấy mình được đưa đến âm phủ và cho ông xem các ghi chép về thiện và ác. Phán quan địa phủ rất ngạc nhiên khi thấy sổ sách ghi lại những việc làm xấu xa của ông ta phủ đầy sân, trong khi việc tốt chỉ có một cuộn giấy nhỏ. Phán quan lại cho gọi mang đến một cái cân. Khi đặt lên bàn cân, những ghi ghép về việc ác có trọng lượng rất nhẹ, ngược lại cuốn sổ mỏng ghi chép việc thiện có trọng lượng rất nặng. Phán quan vui vẻ nói: “Có thể đi ra ngoài.”

Vệ Trọng Đạt hỏi: “Tôi chưa đến bốn mươi tuổi, làm sao có thể có nhiều việc xấu ghi chép lại như vậy?” Phán quan nói: “Chỉ cần một ý nghĩ xấu xa, quỷ thần sẽ biết và ghi lại ngay lập tức”. Ông ta lại hỏi: “Vậy điều gì đã được ghi lại trong cuốn sổ Thiện?” Phán quan trả lời: “Lúc trước Hoàng đế muốn xây dựng một công trình, nhưng công trình này có thể không cần phải làm, hao người tốn của. Ông đã dâng lên một tờ tấu sớ, khuyên Hoàng đế không nên làm. Đây là do ông dụng tâm chân thành, thật tâm dâng lên tấu sớ này”

Vệ Trọng Đạt nói: “Tuy là tôi đã viết tấu chương nhưng hoàng đế không nghe theo, kết quả là vẫn tiến hành tu sửa cây cầu. Tại sao việc thiện này vẫn có sức mạnh to lớn như vậy?”

Phán quan nói: “Nếu như Hoàng đế nghe theo thì phước báo của ông còn lớn hơn nữa. Hoàng đế không nghe, nhưng ông chân thành, ông có cái ý niệm này. Một việc thiện này đã đè xuống được rất nhiều niệm ác của ông. Đáng tiếc là ông sinh ra quá nhiều ác niệm nên lực lượng thiện giảm bớt phân nửa, còn về chức quan của ông, vốn là có thể thăng quan làm tể tướng nhưng hiện giờ cũng không còn hi vọng thăng làm tể tướng nữa rồi!” Về sau, Vệ Trọng Đạt quả nhiên chỉ làm đến chức Thượng thư.

“Cảm ứng thiên vựng biên” nhận xét, Vệ Trọng Đạt chỉ mới xuất ra ác niệm chứ chưa làm ra hành động nhưng đã làm tổn hại đến phúc báo đời này. Mặc dù những lời nói tốt đẹp của Vệ Trọng Đạt không được Hoàng đế chấp nhận, nhưng nó đã có thể trấn áp những việc xấu chất đống toàn bộ sân. Chưa nói đến những người thực sự làm điều thiện hay điều ác, có thể thấy, khi ý niệm vừa mới khởi sinh thì đã mở ra cánh cửa họa và phúc.

Người xưa thường nói: “Trên đầu ba thước có thần linh”. Người có thiện niệm trên đầu họ phát ra ánh sáng, người có ác niệm trên đầu họ tối tăm, cảnh tượng đó Thần và ma nhìn vào đều có thể biết.

Ác tâm phải chịu quả báo, chuyển đổi tâm ý trong sạch có thể cải tạo vận mệnh

Vào thời Gia Tĩnh nhà Minh, có một người ở Giang Tây họ là Du, tên húy là Đô, tên chữ là Lương Thần. Khi còn học ở trường, ông đã thành lập Hội Văn Xương với hơn chục người, và phát nguyện làm việc thiện, phóng sinh, không sát sinh, bỏ dâm dục, không mắng chửi người, và ông đã thực hành chăm chỉ trong nhiều năm. Sau đó ông đã tham dự đến bảy kỳ thi Hương nhưng đều không đỗ. Hơn nữa, vợ của Du Đô sinh được năm trai bốn gái, bốn người con trai đều mất sớm, tuy chỉ còn lại một trai nhưng đã mất tích từ ​​năm tám tuổi. Ba trong số bốn người con gái cũng mất sớm, chỉ còn lại một cô con gái duy nhất. Vợ ông thương khóc con đến nỗi mù cả hai mắt. Ông thường tự xét mình không phạm tội lỗi gì lớn, chẳng biết vì sao bị trời trừng phạt nặng nề bi thảm đến như vậy.

Từ năm ông Du Đô được hơn 40 tuổi, mỗi năm đều tự tay viết một tờ sớ kể lể than vãn về gia cảnh của mình, cầu khẩn với Táo quân xin chuyển đạt lên Ngọc đế. Đã nhiều năm như vậy nhưng chẳng thấy kết quả gì.

Cho đến năm 47 tuổi, vào đêm giao thừa cuối năm, ông Du Đô đang ngồi trong nhà với đứa con gái và người vợ mù, một ông lão họ Trương đến nhà Du Đô. Trong cuộc trò chuyện giữa hai người, Du Đô vừa kể về cuộc sống của mình, vừa kể lại cho ông lão nghe những tờ sớ mà ông đã viết dâng lên Táo quân trong nhiều năm qua.

Trương Lão nói: “Chuyện nhà ông tôi đã sớm biết từ lâu rồi. Tâm ý xấu ác của ông thật quá nặng nề. Ông vốn chỉ biết chạy theo hư danh. Sớ ông viết trình lên chứa đầy những lời oán hận, xem thường Thượng đế, tôi chỉ e là sự trừng phạt chưa dừng lại ở mức như hiện nay đâu.” Du Đô nghe vậy sửng sốt. Trương Lão tiếp tục phân tích thêm, tuy rằng Du Đô không ngoại tình, nhưng khi nhìn thấy phụ nữ, ông sẽ khởi niệm tà dâm mà không tự biết.

Trương Lão phân tích thiện niệm và ác niệm cho ông, hy vọng rằng sau này ông sẽ từ bỏ tham lam, sắc dục, đố kỵ và các vọng niệm khác, kiên trì hành thiện thì mới có hiệu quả.

Kể từ đó, Du Đô chăm chỉ sửa chữa những sai lầm trong quá khứ của mình và tích cực hành thiện. Ba năm sau, vào năm Vạn Lịch thứ tư của nhà Minh, Du Đô lên kinh ứng thí và thi đậu tiến sĩ, tình cờ, ông cũng tìm lại được đứa con trai đã mất tích của mình và người vợ mù của ông cũng lấy lại được thị lực.

Tố Tâm biên dịch
Nguồn: aboluowang

Xem thêm

[ad_2]