[ad_1]

Bộ Tài chính cho rằng, giá xăng dầu của Việt Nam hiện đang thấp hơn so với mặt bằng chung của nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Lào… Xăng, dầu cũng đang “cõng” các thuế, phí thua xa nhiều nước…

Từ 15 giờ chiều ngày 21/2, giá xăng dầu trong nước tiếp tục được điều chỉnh tăng lần thứ 5 liên tiếp, phá đỉnh 8 năm.
Từ 15 giờ chiều ngày 21/2, giá xăng dầu trong nước tiếp tục được điều chỉnh tăng lần thứ 5 liên tiếp, phá đỉnh 8 năm.

Cử tri TP. Hà Nội phản ánh, hiện nay, Bộ Tài chính áp dụng cơ cấu tính giá xăng dầu đưa vào các loại thuế, phí quá cao. Vì vậy, cử tri TP. Hà Nội đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế và phí cho phù hợp để giảm giá xăng dầu, góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân.

Cụ thể, 4 loại thuế chiếm 38% giá xăng dầu như thuế nhập khẩu 10%, VAT 10%, thuế tiêu thụ đặc biệt 10%, thuế bảo vệ môi trường 3.800-4000đ/lít. Bên cạnh đó, các chi phí khác như: chi phí vận chuyển, định mức kinh doanh, lợi nhuận định mức, quỹ bình ổn, chiếm 62%, dẫn đến giá xăng dầu trong nước cao, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng cao. 

Đáng chú ý, thông báo của liên Bộ Công Thương – Tài chính cho biết, từ 15 giờ chiều ngày 21/2, giá xăng dầu trong nước tiếp tục được điều chỉnh tăng lần thứ 5 liên tiếp, phá đỉnh 8 năm. Theo đó, giá xăng RON95 tăng gần 1.000 đồng/lít, vượt mốc 26.000 đồng/lít.

GIÁ XĂNG DẦU LEO THANG NHƯNG THẤP HƠN NHIỀU NƯỚC

Trả lời ý kiến cử tri, Bộ Tài chính cho biết, từ đầu năm 2021 đến nay, giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tục thay đổi khó lường, trong đó, có những đợt tăng, giảm với biên độ khá lớn.

 

Theo dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, giá xăng dầu thời gian tới sẽ còn diễn biến phức tạp, khó dự báo và sẽ chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, đặc biệt là các biện pháp can thiệp vào nguồn cung của các nước, các vấn đề về chính trị ở một số khu vực cũng như sự phục hồi kinh tế của các nước trên thế giới sau đại dịch Covid-19.

Trong nước, để giảm thiểu ảnh hưởng do sự biến động giá xăng dầu trên thị trường thế giới đối với giá xăng dầu trong nước, Liên Bộ Công Thương – Tài chính sử dụng hiệu quả Quỹ Bình ổn giá (BOG), đảm bảo phù hợp với quy định của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu và Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP.

Theo đó, giá xăng dầu trong nước có mức tăng thấp hơn mức tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới. 

Cụ thể, theo số liệu của Global Petrol Prices ngày 31/01/2022, giá xăng của các nước có chung đường biên giới với Việt Nam như Trung Quốc là 26.611 đồng/lít, Lào là 30.665 đồng/lít và Campuchia là 26.184 đồng/lít.

Tại Việt Nam, giá xăng E5 RON92 bán ra trên thị trường trong nước ngày 07/02/2022 là 23.590 đồng/lít và xăng RON95 là 24.360 đồng/lít, thấp hơn đáng kể so với mặt bằng giá xăng chung của các nước trong khu vực cũng như mức bình quân trên thế giới (28.062 đồng/lít).

Từ cuối tháng 11 năm 2021 đến nay, Liên Bộ Công Thương – Tài chính 7 lần điều chỉnh giá xăng dầu trong nước để phù hợp với diễn biến giá xăng dầu trên thế giới, bao gồm điều chỉnh giảm và điều chỉnh tăng.

Thời gian qua, công cụ Quỹ bình ổn giá xăng dầu được sử dụng linh hoạt, hiệu quả, giúp cho công tác điều hành giá xăng dầu trong nước tăng/giảm ở mức độ phù hợp, không xảy ra tình trạng đột biến về giá.

XĂNG “CÕNG” 38% TIỀN THUẾ

Về chính sách thuế, cơ cấu thuế, phí và các yếu tố cầu thành trong công thức giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính chỉ rõ, các sắc thuế hiện hành áp dụng đối với mặt hàng xăng dầu gồm: thuế nhập khẩu (đối với xăng dầu nhập khẩu), thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với xăng) và thuế bảo vệ môi trường (không thu phí, lệ phí đối với xăng dầu), đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn của Việt Nam.

So với nhiều nước trên thế giới, tỷ trọng, thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung.

 

“Tỷ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 45-60%, ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng, dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn. Trong khi đó, đối với nước ta, tỷ trọng thuế đối với xăng khoảng 38% và đối với dầu khoảng 20%”, Bộ Tài chính chỉ rõ.

Với thuế bảo vệ môi trường, Luật thuế bảo vệ môi trường số 57/2010/QHI2 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định cụ thể đối tượng chịu thuế và khung thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng dầu.

Căn cứ khung thuế bảo vệ môi trường này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng dầu như sau: xăng (trừ etanol): 4.000 đồng/lít; dầu diesel, dầu mazut và mỡ nhờn: 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít.

Đối với các mặt hàng xăng sinh học như xăng E5, E10- chứa 5, 10% etanol thì chỉ tính thuế bảo vệ môi trường đối với lượng xăng gốc hóa thạch kết cấu trong xăng sinh học.

Mức thuế bảo vệ môi trường hiện hành cơ bản phù hợp với nguyên tắc xây dựng mức thuế bảo vệ môi trường quy định tại Luật thuế Bảo vệ môi trường.

“Việc sử dụng thuế bảo vệ môi trường với mục tiêu bình ổn giá cũng không thực sự phù hợp với bản chất của sắc thuế này vì thuế bảo vệ môi trường là công cụ chính sách nhằm thu vào các sản phẩm gây tác động xấu đối với môi trường khi sử dụng”, Bộ Tài chính khẳng định.

Về thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng, pháp luật hiện hành không có quy định giảm thuế, miễn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu hai loại thuế này.

Hiện mặt hàng xăng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất là 10% và không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu các loại. Riêng xăng sinh học E5 có mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 8% và xăng E10 là 7%.

Đây là mức trung bình thấp so với nhiều nước và việc quy định mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Về định mức kinh doanh, lợi nhuận định mức, các khoản chi phí khác cấu thành trong giá cơ sở mặt hàng xăng dầu được quy định cụ thể tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Thông tư số 104/2021/TT-BTC ngày 18/11/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp xác định yếu tố cấu thành trong công thức giá cơ sở.

Các khoản chi phí này được rà soát, đánh giá hàng năm trên cơ sở các chi phí thực tế hợp lý, hợp lệ phát sinh tại các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính sẽ thực hiện thông báo điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

Hiện nay, toàn bộ các khoản chi phí định mức áp dụng trong công thức giá cơ sở chiếm khoảng từ 5% đến 8% mức giá cơ sở hiện hành.

Như vậy, theo phân tích của Bộ Tài chính, do khoảng cách giá xăng dầu của Việt Nam đang thấp hơn so với mặt bằng chung của nhiều quốc gia và các loại thuế, phí hiện phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn của Việt Nam, nên chưa đề xuất giảm thuế, phí để “kìm cương” đà tăng của giá xăng, dầu trước mắt.

Liên quan đến chính sách thuế đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành có liên quan theo dõi sát sao diễn biến giá xăng dầu trên thị trường trong nước và thế giới để nghiên cứu, tham mưu cấp có thẩm quyền các giải pháp phù hợp với bối cảnh và thực tiễn hiện nay.

 

Từ khi Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất và Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn chính thức hoạt động, cung cấp xăng dầu cho thị trường trong nước, lượng xăng dầu nhập khẩu giảm đáng kể. Quý 2/2021 lượng xăng nhập khẩu chỉ chiếm 7,2% tổng lượng xăng tiêu thụ trong nước và dầu nhập khẩu chỉ chiếm 31,15%.

Như vậy, lượng xăng sản xuất trong nước chiếm đến 92,8% tổng sản lượng xăng tiêu thụ của cả nước. Xăng dầu nhập khẩu hiện nay chủ yếu từ các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu, đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế.

[ad_2]