[ad_1]

Đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội dài 112,8km đi qua 3 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh có chỉ tiêu xây dựng 1km đường cao tốc gần 95 tỷ đồng/km. Sau khi đưa vào khai thác, sẽ tạo không gian phát triển mới cho Hà Nội và toàn bộ Vùng Thủ đô…

Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh chủ trì hội thảo. Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh chủ trì hội thảo.

Ngày 14/2, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng về triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội chủ trì hội thảo tham gia ý kiến với báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án này.

MỞ RỘNG KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ

Chủ tịch UBND TP. Hà Nội khẳng định, dự án đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 4 có ý nghĩa tạo không gian phát triển mới cho Hà Nội và toàn bộ Vùng Thủ đô, góp phần kết nối các tuyến đường quốc lộ, cao tốc hướng tâm. Khi tuyến đường Vành đai 4 đưa vào khai thác sẽ giảm ùn tắc cho Vành đai 3 hiện đang trong tình trạng quá tải trầm trọng, đồng thời, góp phần phát triển đô thị hai bên tuyến.

Báo cáo tóm tắt nghiên cứu tiền khả thi dự án đường Vành đai 4 tại hội thảo, Tổng Công ty tư vấn thiết kế giao thông vận tải (TEDI) cho biết, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2011, theo tiến trình năm 2020 phải hoàn thành. Tuy nhiên, đến nay mới là các dự án nhỏ lẻ đề xuất theo hình thức PPP, nhưng đều chưa triển khai.

Theo đó, đường Vành đai 4 có chiều dài 112,8 km. Điểm đầu nằm trên đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai, thuộc địa phận xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn. Điểm cuối nằm trên đường cao tốc Nội Bài-Hạ Long, địa phận huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

 

Vành đai 4 có chiều dài toàn tuyến 112,8 km đi qua địa phận 3 tỉnh, thành phố, gồm Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh, có tổng mức đầu tư dự kiến 94.127 tỷ đồng. Dự án sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5/2022.

Dự án có tổng mức đầu tư dự kiến 94.127 tỷ đồng. Thời gian thực hiện dự kiến giai đoạn 2021- 2028. Dự án đi qua địa phận 3 tỉnh, thành phố, gồm Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh.

Trong đó, đoạn qua Hà Nội là 58,2 km đi qua 7 huyện; qua Hưng Yên 19 km; Bắc Ninh 25,6 km và tuyến nối với quốc lộ 18 dài 9,7km.

Quy mô hoàn chỉnh sẽ có 6 làn xe cao tốc và hệ thống đường song hành hai bên và các hành lang để bố trí cây xanh, các công trình hạ tầng kỹ thuật và dự trữ cho đường sắt vành đai.

Tuyến nối theo hướng quy hoạch đường cao tốc Nội Bài – Hạ Long đến cao tốc Hà Nội – Bắc Giang nhằm khép kín đường Vành đai 4 có quy mô 4 làn xe cao tốc.

Dự án đáp ứng tiêu chuẩn đường cao tốc với thiết kế 100km/h với thành phần đường cao tốc và tuyến nối theo hướng đường cao tốc Nội Bài – Hạ Long; đoạn 4 làn xe và đường bên có tốc độ 60- 80 km/h.

Tư vấn TEDI cho biết thêm, dự án đường Vành đai 4 sẽ có 8 nút giao chính được xây dựng giai đoạn 1 bao gồm: nút giao cao tốc Nội Bài – Lào Cai; nút giao đường trục Mê Linh; Đại lộ Thăng Long; Quốc lộ 6; nút giao Pháp Vân – Cầu Giẽ; nút giao cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; Quốc lộ 38; nút giao cao tốc Nội Bài – Lào Cai.

Dự án Vành đai 4- Vùng Thủ đô được đề xuất có 8 nút giao chính, 3 cầu vượt sông.Dự án Vành đai 4- Vùng Thủ đô được đề xuất có 8 nút giao chính, 3 cầu vượt sông.

Dự án đường Vành đai 4 cũng có 3 cầu vượt vượt sông. Cụ thể , 2 cầu vượt sông Hồng gồm cầu Hồng Hà dài 5.023m, cầu Mễ Sở dài 2.674m và 1 cầu lớn vượt sông Đuống dài 990m.

Dự án áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại từ giai đoạn chuẩn bị như khảo sát bằng thiết bị bay không người lái, công nghệ ảnh hàng không…

Giai đoạn thực hiện sử dụng các vật liệu mới như bê tông cường độ cao, siêu cao, mặt đường nhựa polymer với nhiều thiết bị và phương pháp thi công mới…

Trước đó, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang thống nhất đưa tuyến Vành đai 4 đi theo tuyến trên cao 100%.

Tuy nhiên, đơn vị tư vấn đề xuất một số điểm đi thấp, vừa giảm kinh phí đầu tư xuống còn hơn 87.200 tỷ đồng, vừa bảo đảm quỹ đất và giao thông, phát triển đô thị hai bên một cách hiệu quả như tại Hà Nội, Bắc Ninh và khu công nghiệp phố Nối (Hưng Yên)… có thể phát triển quỹ đất hai bên đường.

Đề cập chi tiết về tổng mức đầu tư, TEDI nêu rõ, đơn giá giải phóng mặt bằng được tham chiếu theo bảng giá đất năm 2020 của các địa phương liên quan, tính toán theo địa giới huyện và các chế độ chính sách theo quy định về bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất, hệ số điều chỉnh giá đất đến thời điểm hiện tại.

Theo đó, đơn giá xây dựng 1 km đường của dự án bao gồm: đơn giá xây dựng 1 km đường cao tốc 17m được tính toán quy đổi từ chỉ tiêu xây dựng đường cao tốc 4 làn xe trong suất vốn đầu tư, theo bề rộng nền đường và mặt đường.

Với tỷ trọng chi phí mặt đường/nền đường vào khoảng 55%/45%, tham chiếu từ các dự án cao tốc Bắc Nam giai đoạn 1, chỉ tiêu xây dựng 1km đường là 94,69 tỷ đồng/km.

Đơn giá xây dựng 1 km đường bên – đường đô thị loại 1 và đường bên đường đô thị loại 2 tham chiếu theo suất đầu tư ô tô cấp 3 đồng bằng và đường ô tô cấp IV đồng bằng với chỉ tiêu 24,07 tỷ/1km; chỉ tiêu xây dựng cầu 1m2 mặt cầu bình quân 25,71 triệu đồng/m2…

CẦN TÍNH TOÁN LƯU LƯỢNG XE, MẬT ĐỘ DÂN CƯ

Góp ý tại hội thảo, PGS.TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, Vành đai 4 là tuyến cao tốc đô thị nên yếu tố quy hoạch, cảnh quan rất quan trọng do cao tốc tồn tại 100 năm nên phải hài hòa với quy hoạch tổng thể, khi dự án tiền khả thi được phê duyệt phải thi tuyển kiến trúc.

“Dự báo về lượng xe cần phải sát với tình hình phát triển kinh tế-xã hội, nếu không làm xong đường thì lại chậm hơn so với tốc độ phát triển”, ông Chủng góp ý. Vì vậy, đề nghị cơ quan nghiên cứu kỹ hơn dự báo nhu cầu phát triển cũng như lưu lượng xe, làm cơ sở dự báo cho quy mô và phân kỳ đầu tư của dự án.

Còn PGS.TS Tống Trần Tùng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học kỹ thuật, Bộ Giao thông vận tải nêu ý kiến về việc nút giao với sân bay thứ 2 của Thủ đô chưa được nêu trong báo cáo tiền khả thi và kiến nghị về số lượng nút giao của dự án tại phía Nam còn ít và cần rút kinh nghiệm từ nút giao Pháp Vân-Cầu Giẽ để tránh ùn tắc.

Ngoài ra, cần quan tâm mật độ xây dựng, mật độ dân số quanh Vành đai 4 và cần có chỉ tiêu ngay từ đầu bởi nếu xây dựng chằng chịt, sẽ không còn khái niệm cảnh quan của cả tuyến đường.

Là thành viên Hội đồng Thẩm định Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Đình Thọ khẳng định sẽ cùng Hà Nội tiếp thu các ý kiến đóng góp để hoàn chỉnh dự án tiền khả thi.

Ông Thọ cho rằng, cần xác định đường Vành đai 4 là đường cao tốc đô thị. Chức năng của đường cao tốc đi trong đô thị tạo động lực phát triển đô thị, quản lý vận hành theo cơ chế của đường cao tốc – Hệ thống giao thông thông minh (ITS). Về các nút giao cắt, nếu không xác định rõ, tuyến đường sẽ trở thành đường đô thị. Do đó, phải tính đến việc đầu tư đồng bộ các nút giao để phân luồng từ xa, mang tính kết nối.

Tiếp thu ý kiến tại hội thảo, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh cho rằng, thành phố sẽ rà soát, chắt lọc, tiếp thu tối đa các ý kiến, từng phần việc sẽ được xâu chuỗi khoa học, gắn dự án với quy hoạch, cảnh quan kiến trúc, phân luồng từ xa, đảm bảo tỷ lệ đường trên cao phù hợp… để đảm bảo tiến độ, chất lượng cao nhất, đúng pháp luật của dự án trọng điểm này.

 

Đường Vành đai 4 dài 112,8km có tổng mức đầu tư dự kiến 94.127 tỷ đồng. Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, dự án được triển khai theo hình thức đầu tư hỗn hợp đầu tư công và phương thức đối tác công tư PPP, chia tách thành 7 dự án thành phần. 

Trong đó, UBND TP. Hà Nội, tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh là chủ đầu tư thực hiện hợp phần dự án số 1 – bồi thường giải phóng mặt bằng tái định cư và số 2 – xây dựng đường đô thị, đường song hành theo hình thức đầu tư công trên địa phận của từng địa phương.

Riêng dự án đầu tư đường cao tốc theo hình thức đối tác công ty PPP, loại hợp đồng BOT, trong đó, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư.

#box1644835854874{background-color:#bce1bf}

[ad_2]