[ad_1]

Số em giầu lấy khó cũng giầu.
Số em nghèo chín đụỉn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp thì theo.
Thân em có quản khó nghèo làm chi.
Chữ nhân duyên thiên tài nhất thì.
Giầu ăn khó chịu lo gì ma lo.
Ca Dao
Người buồn về phận, người giận về duyên.
Tài sắc thế mà sao duyên phận thế.
Câu chuyện mở đầu
Đi vào sự thật của nữ phái Tướng Mệnh học có những khả năng gì ?
Tướng Mệnh học có những khả năng sau đây:
a) Biết trước thân phận:
– trong quá khứ xuất thân và kinh lịch
– trong tương lai các hung họa phúc
– kết cục cuộc đời hữu hạnh hay bất hạnh
b) Phân tích theo tính cách:
– Trinh thục u nhàn, cân quắc tu mi, phóng đãng dâm bôn, đa sầu đa cảm hay lạnh lùng cô độc.
c) Phát hiện giá trị:
– Đức hạnh, học vấn, tài năng.
Tất cả những khả năng trên thì khó nhất là nói chuyện kinh lịch, quá khứ và tương lai, còn như chuyện tìm thấy giá trị, tính cách, xuất thân giàu nghèo, sang hèn tương đối dễ hơn.
Một nhà nghiên cứu về Tướng Mệnh học người trung Quốc tên là Tề Đông Dã kể rằng:
“Vào cuối đời Thanh triều vua Quang Tự tại Bắc Kinh, nơi thanh lâu nổi tiếng đương thời tục gọi là Bát đại Hồ đồng, có nàng danh kỹ mang cái tên thật kiều diễm Hạnh Xuân. Nếu ai không biết nàng là kỹ nữ mà trông thấy thể thái diện mạo của nàng thì đều phải nghĩ rằng nàng là một quý phu nhân, vừa đẹp vừa đoan trang, dáng đi lúc nói, miệng cười, khi nằm khi ngồi rất nhãchẳng  bợn chút thô tục, cũng không có điểm nào yêu quái tiện dâm. Thế mà sự thật rành rành, Hạnh Xuân đang là một ca kỹ, chỉ khác ở chỗ nàng là thứ ca kỹ cực kỳ nổi danh, khắp Trung Quốc các đạt quan, quí nhân đều biết tiếng, đều mong được gần gũi nàng cho thoả chí. Phàm loại danh kỹ thường thường chỉ lưu lạc thời gian ngắn rồi sẽ được các tay quyền thế hoặc phú thương hoặc danh sĩ, hoặc kẻ giang hồ tứ chiến chuộc ra mang về làm thiếp yêu. Hạnh Xuân dĩ nhiên cũng không ra ngoài thông lệ đó. Một hôm trong đám khách, có phú thương họ Hạ muốn lấy Hạnh Xuân làm thê thiếp. Chuyện tiền chuộc dù phải trả trăm luợng vàng chẳng thành vấn đề. Họ Hạ chỉ chú trọng một điều duy nhất: Liệu Hạnh Xuân có sinh con không ? Éùo le một nỗi là họ Hạ không muốn nàng sinh con bởi lẽ ông ta đã có vợ và hai thiếp rồi, con cái đùm đề. Thêm nữa, ông rất yêu vẻ đẹp của Hạnh Xuân, ông muốn nàng sẽ như bức tượng bằng ngọc, nếu sinh con tất sẽ nàng xấu đi. Để giải quyết nỗi thắc mắc này họ Hạ chỉ khả dĩ trông vậy vào khoa coi tướng, ông mời ngay một vị túc nho họ Mạc đến  Bát Đại Hổ Đồng dùng cơm luôn thể nhờ cậy chỉ giáo cái tướng cách Hạnh Xuân. Nàng được gọi tới bàn hầu rượu. Mạc tiên sinh không hiểu ẩn ý của lái buôn họ Hạ kia nên nghĩ rằng ông họ Hạ kia muốn lấy Hạnh Xuân để có thêm con, nên sau khi quan sát Hạnh Xuân rồi, mới ghé tai bảo bạn: “ Không nên lấy nàng vì vĩnh viễn không thế sinh đẻ “.
Oâng họ Hạ hỏi: “Ngoài đường sinh đẻ, Hạnh Xuân còn có điếm xấu nào nữa ? “Mạc tiên sinh đáp: “Tướng cô ta cứ theo dung mạo bên ngoài thì phải tam phẩm phu nhân, thế mà chẳng hiếu tại sao lại luân lạc vào đây sống đời ca kỹ ? Vì tướng cách cô ta nhất định lấy người chức tước, chứ không phải lấy phú thương đâu“. Lạ gì thói lái buôn trọng lời khinh ly biệt, lời Mạc tiên sinh làm cho họ Hạ thắc mắc, ông muốn xem cho kỹ kẻo lỡ không hạp số có ngày lụy vào thân nên mới năn nĩ Mạc tiên sinh tìm cho ra cái phá tướng nào ghê gớm đến nỗi biến một phu nhân thành con điếm. Nhưng Mạc tiên sinh nhìn không ra. Điều này khiến cho tiên sinh tức bực vô tả và tiên sinh quyết tìm cho ra.
Bởi vậy, Mạc tiên sinh từ bữa ấy năng lui tới Bát Đại Hổ Đồng.
Một hôm, ngồi nói chuyện vãn cùng Hạnh Xuân, tiên sinh liền hỏi thẳng vào đề cho nàng biết tướng cách giá đáng phu nhân sao lại lạc loài nơi thanh lâu đàn phách.
Hạnh Xuân nói: “ Thưở nhỏ cha mẹ xem số cho nàng, thầy số bảo tương lai nàng là người trong thanh lâu. Lên tám tuổi, cha mẹ theo nhau mất sớm, nàng phải đi làm con nuôi và sau cùng rơi vào tay lũ buôn hương bán phấn. Con mụ dầu cũng đem số nàng hỏi thầy đoán đế xem con bé này liệu có phải là cây tiền cho mụ chăng ? Thầy đoán mệnh phê vào lá số mấy chữ: “ Mỹ nhi vô tử, diệm nhi đa phu “, nghĩa là đẹp không con, tài sắc nhưng nhiều chồng. Lá số ấy hiện nàng vẫn giữ.
Mạc tiên sinh cố ý ngồi nói chuyện thật lâu với Hạnh Xuân, hy vọng phát hiện được phá tướng của nàng. Nhưng từ buổi trưa đến quá chiều tuyệt nhiên không thấy gì khác lạ cả.
Rời kỹ viện ra về, dọc đường  Mạc tiên sinh chợt  nhớ ra trong  thời  gian  đàm thoại với cô kỹ nữ, mình là ông già ngoại năm mươi mà cũng chẳng phải đi tiểu tiện lần nào, thế mà Hạnh Xuân mới mười chín tuổi đầu lại phải cứ chốc chốc xin phép đi tới sáu lần bảy lượt, vả chăng lúc này vào mùa hè, thông thường người hay ra mồ hôi chứ đâu có cần tiểu tiện. Đúng rồi, Tướng Mệnh gọi là tiết khí, một loại ám phá tướng.
Đến tối, Mạc  tiên sinh vội vã   tới  kỹ  viện  tìm cô  bạn  đồng phòng   với  Hạnh Xuân tên là Phi Phượng đế hỏi xem hôm nay Hạnh Xuân có đau ốm chi không ? Phượng bảo không. Mạc tiên sinh thừa cơ nói luôn thế tại sao buổi chiều cô ta ngồi nói chuyện với tôi mà luôn te te chạy vào cầu đến cả năm bảy lần. Phi Phượng chỉ bưng miệng cười. Mạc tiên sinh cho biết sở dĩ ông ta đến đây hỏi lẩn thẩn như thế là vì lý do liên quan đến vấn đề xem tướng số. Bấy giờ, Phi Phượng tỏ vẻ ngạc nhiên: “Thôi chắc rồi, nếu vậy con Hạnh Xuân có phá tướng thật rồi. Tôi không hiểu tướng hay phá tướng thế nào, nhưng tôi thấy con Xuân có cái bệnh kỳ lắm“. Phượng chỉ nói đến đây và im bặt.
Mạc tiên sinh hỏi: “ Cô ta có bệnh về bài tiết thì nên tìm thầy thuốc chữa, khó gì đâu“.
Phi Phượng cười đáp: ”Nó đi chữa thầy nhưng thầy thuốc bảo nó không phải là bệnh, chỉ là thói quen, không dùng thuốc chữa được “
Ngưng một lát, Phượng nói tiếp:”Cái phá tướng ấy của Hạnh Xuân không chỉ là đi tiểu tiện luôn luôn thôi đâu, mà còn… “ Phượng lại không nói thêm.
Tuy nhiên, Mạc tiên sinh cũng chẳng cần hỏi nữa, phá tướng của Hạnh Xuân quá rõ ràng.
Câu chuyện chứng tỏ Tướng Mệnh học đã tìm thấy từ cái đẹp biểu diện có một cái xấu nguy hại tiềm ẩn bên trong.
Cho dù người đàn bà đẹp đến như loại đàn bà Padmini của Ân độ chăng nữa mà có cái ám phá tướng là thân phận cũng chẳng ra gì.
Theo truyền thuyết cuối đời nhà Thanh thì bà mẹ Lý Hồng Chương, một vị đại danh thần lúc ấy tướng mạo cực xũ lậu, nhưng bà ta có tiếng nói như thanh âm con phuợng hót. Khi bà ta hãy còn là con gái, vẻ xấu xí của bà đã thành lời đồn đại, xa gần ai cũng biết cả nên chẳng ai dám đến “ vấn danh “. Chỉ có ông thân sinh ra Lý Hồng Chương ở xa tới tìm nhà người bạn lại chính là cha cô gái xấu đắng xấu cay đó. Vào nhà chơi, ông cũng phải nhận rằng trong đời chưa từng gặp ai xấu đến thế ! Lúc ăn cơm, có một chuyện xảy ra khiến ông ngạc nhiên vô cùng, cô gái cất tiếng gọi bầy gà vịt, âm thanh trầm ấm thanh sáng như nhạc điệu réo rắt, gà vịt cứ chạy theo tiếng gọi mà về chuồng chẳng khác chi một đoàn quân tuân lệnh ông tướng. Người họ Lý vốn tinh thông tướng pháp, biết rằng cô gái ấy mang đặc biệt quí tướng cách. Khi đàn gà vịt vào chuồng rồi, con nào con nấy lặng im không lao sao hỗn độn, tất cả như sợ hãi, thì ông họ Lý tự nhủ: “ Ta nhất định phải lấy cô này để sinh ra quí tử nối dõi mới được “.
Về sau, cô gái ấy quả sinh ra quí tử là Lý Hồng Chương, từng làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19.
Chuyện Hạnh Xuân và cô gái xấu xí, mẹ đẻ của Lý Hồng Chương và còn nhiều chuyện thật khác đã xác nhận định lý của tướng Mệnh học đối với nữ phái.
Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chi xũ
Xũ nữ giá quí phu, xũ trung hữu đại mỹ
Nghĩa là:
Người đàn bà đẹp thường bị lung lạc làm đĩ vì trong vẻ đẹp chứa chất một tướng cách cực xấu. Người đàn bà xấu thường lấy được chồng sang vì trong dung mạo xấu xí có mang một tướng cách cực tốt.
Hai định lý này có thể giải đáp một hiện tượng khá phổ thông trong cuộc sống.
Bước vào Tướng Mệnh, bước đầu hãy thuộc câu ca quyết ( nguyên tắc căn bản sắp xếp thành ca từ ) sau đây:
Ta ta thế tục bất tri nhân
Vọng tương dung mạo thủ kỳ hình
Nhược đắc chính hình vi đại quí
Y hi tương tự xuất quần luân
Hình trệ chi nhân hành tất thất
Thần trệ chi nhân tâm bất khai
Khí trệ chi nhân ngôn tất lãn
Sắc trệ chi nhân diện trần ai
Hình thần khí sắc đo vô trệ
Cử sự tâm mưu bách sự hài
Nghĩa là:
Thương thay cho thế tục không biết rõ gốc nguồn
Tưởng nhầm dung mạo là hình tướng
Nếu được là chính hình thi đại quí
Vượt ra khỏi đám người thường
Hình mà trệ tất làm việc gì cũng hỏng
Thần mà trệ tất tâm địa u mê
Khí mà trệ thì tiếng nói nhọc mệt
Sắc mà trệ thì mặt mày nhu có tro bụi
Cả hình thần khí sắc đều không trệ
Thì trăm việc mưu tính đều hài lòng.
Trong bài ca quyết có hai chữ “ Chính Hình “ để bảo cho ta biết rằng không phải cứ hình nào cũng được, phải có được Chính Hình thì thân phận mới hay. Muốn nhận ra Chính Hình thế nào, cái nhìn của ta không thể không thông qua những nguyên tắc và định lý của khoa Tướng Mệng học. Nguyên tắc và định lý về “ Chính Hình “ của Tướng Mệnh học không hề do một sự áp đặt của một hệ thống tư tưởng hoặc của một môn phái. Nó hoàn toàn là kết quả của mấy ngàn năm kinh nghiệm, do hàng ngàn bộ óc sáng suốt đã thu thập lại. Bởi thế, bài ca quyết mới dám ngang nhiên chê trách người đời là mê muội lầm lẫn lấy dung đạo làm hình, ý nói là khi nhìn hình dáng một người, con mắt tục với con mắt tướng khác nhau.
Ca dao ta có câu Tốt gỗ hơn tốt nước sơn “ rất gần với tướng mệnh học, gỗ tốt là chính hình, nước sơn chẳng qua là dung mạo theo mắt tục.
Lại có câu khác:” Bủng người tươi đít “ Nếu đặt ngược nó lại thì câu này quả đã đi vào bậc cao của tướng học vậy. Vì nó là tục ngữ cho nên bị xem thường đó thôi.
Trong hội họa Tây phương, người đàn bà từ Léonard de Vinci qua Van Dongen đến Picasso, có thể ví như một cuộc tiến hoá từ dung mạo tới “ Chính Hình “ của Tướng Mệnh.
Con người dưới nhãn quan Tướng Mệnh phải hội đủ cả bốn yếu tố  căn bản: Hình – Thần – Khí – Sắc. Nếu chỉ có dung mạo ma không có Chính Hình là hỏng, nếu thiếu Thần, Khí, Sắc cũng hỏng, cái tốt của Hình sẽ giảm đi gần hết.

[ad_2]