[ad_1]

Ảnh chụp màn hình trang nguoiduatin

Chữ Hán là loại chữ tượng hình, một trong những yếu tố căn bản nhất trong nền văn hóa Truyền thống Trung Hoa vĩ đại. Nền văn hóa Truyền thống Trung Hoa được Thần truyền lại, ông không không thuộc riêng về một dân tộc nào, ông thuộc về tất cả các dân tộc phương Đông trong đó có Việt Nam chúng ta.

Chữ Hán được cho là do Thương Hiệt sáng tạo ra, bẩm sinh ông  có 4 mắt, ông có khả năng quan sát sự vật vô cùng rõ ràng. Ông thường cưỡi lừa bôn ba khắp cao nguyên hoàng thổ ở Thiểm Tây, vượt núi băng sông, đi khắp các châu các quận, tìm hiểu phong tục tập quán dân gian, thu thập phù hiệu ngôn ngữ lưu hành trong dân gian.

Chữ Hán là ngôn ngữ có nội hàm rất uyên thâm và sâu xa, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu về chữ Nghĩa 義.

Chữ “Nghĩa 義” – thời cổ đại là chỉ nghi thức xuất chinh uy vũ của quân đội. Tự hình là dùng chữ “Ngã 我” nghĩa là tôi, cái tôi và chữ “Dương 羊” nghĩa là con dê hợp lại mà thành, có ý nghĩa như chữ “Thiện 善” nghĩa là tốt lành, lương thiện. Kết nối lại đã nói rõ vấn đề cho chúng ta rồi. Chữ “Nghĩa” là chỉ việc chinh phạt với mục đích thiện thì mới là nghĩa. Tiền đề là phải vì thiện thì mới được gọi là nghĩa.

Chúng ta xem cách dùng chữ “Nghĩa” của người xưa thì sẽ biết, hiện nay người ta coi “diễn nghĩa” thành một loại hình thức nghệ thuật, điều đó là sai hoàn toàn, bởi vì người xưa rất chú trọng cách dùng từ, không phải tất cả các truyện đều có thể gọi là “diễn nghĩa”. Ví như: “Phong Thần diễn nghĩa”, “Tam quốc diễn nghĩa”, “Tuỳ Đường diễn nghĩa”, “Thất hiệp ngũ nghĩa” [1] là những tác phẩm có thể gọi là “diễn nghĩa”.

Còn “Tây du ký” chỉ có thể gọi là “ký”, “Thuỷ Hử truyện” cũng chỉ có thể gọi là “truyện”. Nhìn thì là sự khác nhau về tên gọi nhưng nội hàm lại có sự khác biệt rất lớn, Bởi vì chỉ có chiến đấu vì những điều thiện mới gọi là nghĩa.

Truyện “Phong Thần diễn nghĩa” còn được gọi là “Phong Thần bảng”, cả quyển gồm 100 hồi, trên bề mặt là kể về việc phong Thần trên Thiên giới, cho nên mới gọi là “Phong Thần bảng”. Còn gọi là “Phong Thần diễn nghĩa” thì lại chú trọng về chữ “Nghĩa”, chỉ việc Khương Tử Nha phò tá nhà Chu (Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương) đánh dẹp Thương Trụ, ông là một vị quân sư chính nghĩa, phản ánh lòng dân, để người dân làm chủ đất nước.

Đây mới là mạch chính của câu chuyện, là nguyên nhân chính câu chuyện được gọi là “diễn nghĩa”. “Tam quốc diễn nghĩa” xem qua thì tựa như đang kể về diễn biến của ba nước Nguỵ, Thục, Ngô trong tư thế chân vạc, nhưng mạch chính lại nằm bên phía bậc nhân nghĩa là Lưu Bị.

Tào Tháo và Tôn Quyền nhiều nhất là chiếm được mặt trí tuệ, đặc biệt là Tào Tháo nham hiểm xảo trá, trái ngược hẳn với sự khoan dung nhân từ của Lưu Bị. Bởi vì có cái “Nghĩa” của Lưu Bị nên mới gọi là “Tam quốc diễn nghĩa”.

Mạch chính của “Tuỳ Đường diễn nghĩa” là xoay quanh đội quân Ngoã Cương do Lý Thế Dân cần chính thương dân làm chủ đạo, nên mới gọi là “Tuỳ Đường diễn nghĩa”, “Thất hiệp ngũ nghĩa” đại khái cũng vậy.

Còn nhân vật chính trong “Thuỷ hử truyện” là các vị hảo hán Lương Sơn, mặc dù phất cờ ‘thay trời hành đạo’ nhưng lại là một bang cường bạo, cũng không có nhân tố thiện trong đó, nên cũng chỉ có thể gọi là truyện, vì là truyện viết về cường đạo, nên không thể gọi là “nghĩa”.

Tác phẩm “Tây du ký” tuy rằng là chính, nhưng là một câu chuyện tu luyện, không có quan hệ với chiến tranh nên gọi là “ký”. “Hồng lâu mộng” thì cũng vậy.

Chỉ có chiến đấu vì chính nghĩa mới có thể gọi là “diễn nghĩa”, những loại khác thì không được gọi như vậy. Bởi vậy khi chúng ta xem những câu chuyện xưa, cần phải xem mạch chuyện chính của nó, xem phía mà Thần chủ đạo, xem phía thực sự thuộc về mặt thiện.

 Hiện nay chữ giản thể của Trung Quốc viết là “义(nghĩa), trên hình dạng chữ có thể nhìn ra ý nghĩa: Hai con dao dắt vào hông, ý là cầm dao đứng ra liều mạng bảo vệ bạn bè, đây là bất thiện. Chữ giản thể đã đánh mất sự thiện lương và chính nghĩa, điều nó đề xướng là đấu tranh giữa người với người.

Người Việt hiện nay đang sử dụng chữ quốc ngữ, nhưng chữ quốc ngữ cũng không phải là chữ do người Việt sáng tạo ra, cũng không liên quan gì đến truyền thống, tuy nhiên từ khi sinh ra chúng ta đã sử dụng nên rất đỗi thân quen và ưa thích.

Chữ viết truyền thống của người Việt chính là chứ Hán, bởi vì ông đã đi cùng dân tộc cả ngàn năm, người Việt đã sử dụng chữ Hán như là ngôn ngữ chính thức cho đến kỳ thi Đình năm 1919 mới thôi.

Chữ Hán có nội hàm rộng lớn hơn, thâm sâu hơn, ngoài ra có thể giúp kết nối với cội nguồn, tổ tông và văn hóa truyền thống của dân tộc, do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và học chữ Hán là điều chúng ta nên quan tâm.

 

Kiên Tấn-Nguồn Chánh Kiến

Xem thêm

[ad_2]